đặc điểm tình hình chung xã Sơn Bình

Xã Sơn Bình xưa là đất phong của công thần nhà Lê: Nguyễn Lỗi, sau con ông là Nguyễn Đức Ly khai thác lập nên làng Bảo Thịnh và làng Yên Đồng, xã Dương Trai.

Các thế hệ nhân dân xã Sơn Bình đã nối tiếp nhau vun đắp truyền thống thủy chung, thương người vì nghĩa, hun đúc nên tinh thần kiên cường, bất khuất trong đấu tranh giữ làng, giữ nước, đặc biệt là từ khi có Đảng, Bác Hồ lãnh đạo, nhân dân xã Sơn Bình không ngừng phát huy tinh thần yêu nước, cần cù trong lao động sản xuất, dũng cảm, kiên cường trong chiến đấu, lập nên nhiều thành tích xuất sắc, ghi đậm nhiều móc son trên con đường phát triển, xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Với những cống hiến, hy sinh và bề dày thành tích đạt được, Đảng bộ và nhân dân xã Sơn Bình vinh dự được đón nhận danh hiệu "Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân".

Kế thừa truyền thống văn hóa - cách mạng của cha anh, dưới ngọn cờ quang vinh của Đảng, suốt hơn 85 năm qua các thế hệ cán bộ đảng viên xã Sơn Bình không ngừng trau dồi đạo đức, phẩm chất cách mạng, cùng nhân dân vượt qua mọi khó khăn thử thách, viết nên những trang sử vẻ vang bằng chính nghị lực phi thường và sự sáng tạo, năng động, tinh thần đoàn kết nhất trí của mình.

          Ghi lại những thành tích và cả những tồn tại, khiếm khuyết trong suốt chặng đường vừa qua là thể hiện sự trân trọng đối với các thế hệ cán bộ, đảng viên đã phấn đấu quên mình cho quê hương đất nước trong từng thời kỳ lịch sử, đồng thời giáo dục tinh thần yêu quê hương, nâng cao ý thức trách nhiệm cho các thế hệ cán bộ, đảng viên nói riêng, nhân dân Sơn Bình nói chung hôm nay và mai sau.

Để ghi nhận và lưu giữ những thành quả cách mạng to lớn của Đảng bộ và nhân dân Sơn Bình; thực hiện tốt Chỉ thị 15-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng, các Chỉ thị của Tỉnh ủy Hà Tĩnh, Huyện ủy Hương Sơn về việc sưu tầm, nghiên cứu và biên soạn “Lịch sử Đảng bộ các địa phương và các ngành”, trên cơ sở hướng dẫn của Ban Tuyên giáo Huyện ủy, thể theo nguyện vọng của cán bộ, đảng viên và nhân dân, Ban Chấp hành Đảng ủy xã quyết định thành lập Ban chỉ đạo, Ban sưu tầm tư liệu để biên soạn cuốn “Lịch sử Đảng bộ xã Sơn Bình (1930 - 2015)”.

Sau một thời gian dài nghiên cứu và trực tiếp khai thác tư liệu từ các nhân chứng lịch sử: các vị lãnh đạo Đảng, chính quyền, đoàn thể qua các thời kỳ; qua khảo sát các địa danh, di tích lịch sử; tìm hiểu tư liệu lưu trữ của Đảng ủy, Ủy ban nhân dân Sơn Bình, bác Lê Tôn Mưu, Nguyễn Hồng Cúc, đến nay cuốn “Lịch sử Đảng bộ xã Sơn Bình (1930 - 2015)” đã hoàn thành và ra mắt bạn đọc.

          Cuốn “Lịch sử Đảng bộ xã Sơn Bình (1930-2015)” ra đời đã khái quát được quá trình lãnh đạo nhân dân thực hiện nhiệm vụ cách mạng của Đảng bộ từ 1930 - 2015, là tài liệu quý giá để giáo dục truyền thống cách mạng, tình yêu quê hương, đất nước và lòng tự hào dân tộc cho các thế hệ hôm nay và mai sau.

          Thay mặt Đảng ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, chúng tôi xin chân thành cảm ơn sự chỉ đạo, giúp đỡ về chuyên môn của Ban Tuyên giáo huyện; sự hợp tác nhiệt tình của cán bộ lãnh đạo Đảng, Chính quyền và đoàn thể ở địa phương qua các thời kỳ, đặc biệt là quá trình làm việc với tinh thần trách nhiệm cao của Ban chỉ đạo, Ban sưu tầm và Ban biên soạn. 

          Trong quá trình biên soạn, mặc dù đã có nhiều cố gắng, song do những khó khăn khách quan và chủ quan nên cuốn sách khó tránh khỏi thiếu sót. Rất mong nhận được ý kiến đóng góp chân thành của bạn đọc để bổ sung, nâng cao chất lượng cuốn sách trong những lần tái bản.  

          Xin trân trọng giới thiệu cuốn “Lịch sử Đảng bộ xã Sơn Bình (1930 - 2015)” cùng bạn đọc!

                                      BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ XÃ SƠN BÌNH

 

 

 

 

 

 

 

 

Chương mở đầu

KHÁI QUÁT VỀ VÙNG ĐẤT VÀ CON NGƯỜI XÃ SƠN BÌNH

 

 I. VỊ TRÍ ĐỊA LÝ VÀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN

Xã Sơn Bình nằm vào vùng Đông Bắc huyện, Bắc giáp xã Sơn Châu, Nam giáp xã Sơn Trà và xã Ân Phú (Vũ Quang) Tây giáp xã Sơn Thủy, Đông giáp xã Sơn Hà.

Diện tích tự nhiên có 700,97 ha, có 862 hộ dân, 3.103 người, trong đó có 1.472 nam, 1.631 nữ.

Sơn Bình thuộc địa hình đồi núi, dốc từ Tây sang Đông, ruộng bậc thang, thấp trủng, đất thịt nhẹ. Dãy núi Nầm chạy từ Nầm đến giáp xã Sơn Trà phân cách xã Sơn Bình với các xã Sơn Thủy, Ân Phú. Phần giáp xã Sơn Châu cũng là đất đá sỏi của ngọn núi Đùng Đùng, Mồng Gà. Bàu Hàn phân chia ranh giới Sơn Bình và Sơn Hà, là dấu tích của hói Cửa Khâu xưa, có nơi sâu đến 6-7 m, là nguồn nước thủy lợi chính, cũng là nơi nuôi cá nước ngọt rất tốt.

Sơn Bình là vùng lúa của huyện Hương Sơn. Diện tích canh tác hàng năm là 240 ha, trong đó lúa Đông Xuân 172 ha, lúa Hè Thu 90 ha. Vật nuôi có Trâu, Bò (455 con), Lợn (504), Gà (11.000 con), Hươu (357 con). Toàn xã có 151,3ha rừng trồng, phần lớn là Thông, Keo lai. Có 15 ha ao hồ thuận lợi cho phát triển thủy sản.

Nguồn đất đá sét đỏ là nguyên liệu làm gạch rất tốt, là nguyên liệu cho nhà máy gạch Tuy-nen Sơn Bình trong những năm 2001-2010. Mỏ đá CCIRIS trong dãy Mồng Gà có trữ lượng hàng triệu m3.

Quốc lộ 8A có 2,1 km, huyện lộ có 5,9 km đi qua xã và hệ thống đường liên thôn dài 23 km.

Trạm bơm bàu Hàn tưới nước cho 100 ha lúa; các đập nước Tràng Lây, Khe Su (Tục truyền, đập Khe Su do con cháu Hoàng Giáp Nguyễn Văn Lễ đầu tư công sức cho dân làng đắp từ thế kỷ thứ XVII, hồ chứa được 20 vạn m3 nước tưới cho đồng ruộng trong vùng), đập Bòng Trèn tưới cho 70 ha.

2. Khí hậu, thời tiết

Cũng như các xã khác của huyện Hương Sơn, Sơn Bình nằm vào khu vực nhiệt đới gió mùa, thời tiết khí hậu mang những đặc trưng chung của vùng. Nhiệt độ trung bình hàng năm khoảng 23,6°C, lượng mưa trung bình đạt từ 1.400 - 2.300 mm. Mỗi năm chia làm 2 mùa rõ rệt:

- Mùa nóng: bắt đầu từ tháng 4 đến tháng 9, nhiệt độ trung bình khoảng 30° - 35°C, chịu ảnh hưởng của gió phơn Tây Nam (thường gọi là gió Lào). Gió Lào xuất phát từ Ấn Độ Dương, qua Thái Lan vào gây mưa ở Lào, khi vượt dãy Trường Sơn sang Việt Nam bị biến tính trở nên khô và nóng. Gió thường hoạt động từ tháng 5 đến tháng 9, mạnh nhất là vào các tháng 6, 7, 8 với cường độ thổi từ 11 - 14 giờ trong ngày, gây khô nóng, ảnh hưởng lớn đến sản xuất. Tuy nhiên, vào cuối mùa nắng khí hậu có sự thay đổi khá rõ: từ cuối tháng 7 đến đầu tháng 10 mưa bão xảy ra thường xuyên gây ngập lụt nhiều nơi. Lượng mưa trung bình của địa phương trong mùa này chiếm 80 - 90%, lượng mưa toàn xã cả năm đạt từ 1.300 - 2.300 mm.

 - Mùa lạnh: kéo dài từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau. Gió mùa Đông bắc kéo từ cao áp Sybia vào đã làm cho nhiệt độ của vùng nhanh chóng giảm xuống. Thời kỳ đầu, gió mùa Đông Bắc gây mưa lớn, tạo ra lũ lụt các tháng 10, 11, về sau lại gây ra mưa phùn và giá rét. Rét nhất là tháng Chạp (tháng 12) và tháng Giêng (tháng 1), nhiệt độ có khi xuống dưới 10°C ảnh hưởng đến sức khỏe con người, gia súc và hoạt động sản xuất.

II. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH DÂN CƯ, LÀNG XÓM

1. Sự hình thành dân cư và làng xóm

Sơn Bình trước năm 1945 thuộc xã Dương Trai, ấp Đỗ Xá, là một vùng đất có nhiều rừng dày, núi rậm, là nơi hoang dã chỉ có thú dữ và chim muông như hổ, báo, voi, hươu, nai, lợn rừng, trăn, gà rừng, công, đa đa… sinh sống, thỉnh thoảng có một số ít người từ nơi khác đến săn bắn thú rừng, kiếm củi, đốn gỗ.

Theo Đại Việt sử ký toàn thư, tháng 9 năm 1406, nhà Minh (Trung Quốc) đem quân sang xâm lược và đô hộ nước ta. Đến năm 1418, Lê Lợi, Nguyễn Trãi phất cờ khởi nghĩa ở núi Lam Sơn (Thọ Xuân - Thanh Hóa), Lê Lợi tự xưng là Bình Định Vương, nghĩa quân Lam Sơn đã chiến đấu với giặc Minh trên 2 năm. Thế giặc lúc đầu mạnh hơn, nghĩa quân chị nhiều tổn thất nặng nề nên đã quyết định dời đại bản doanh vào xây dựng căn cứ làm chỗ đứng chân lâu dài ở đất Đỗ Gia (nay là Hương Sơn). Vào đây, nghĩa quân của Lê Lợi kết nghĩa với đội quân Cốc Sơn của Nguyễn Tuấn Thiện cùng nhau xây dựng căn cứ, củng cố lực lượng, tổ chức chiêu mộ binh lính, xây dựng đồn trại. Tương truyền, khi quân vua Lê đến vùng rú Cốc, Nguyễn Tuấn Thiện giết ngựa trắng ăn thề dưới gốc cây thị ở xóm Nậy (thuộc Phúc Đậu, nay là Sơn Phúc), cùng kết nghĩa anh em. Một số đạo quân của Lê Lợi đã đóng quân ở chân núi Mồng Gà, Đùng Đùng, Chân Tiên, Phúc đạn (thuộc xã Sơn Bình ngày nay), núi Tướng quân, núi Nầm (Sơn Châu).

Và cũng từ căn cứ Đỗ Gia, nghĩa quân Lam Sơn đã chiến đấu với quân Minh và giành chiến thắng oanh liệt ở trận Khuất Giang (núi Nầm) và nhiều trận ở núi Mồng Gà, Chân Tiên… làm cho quân Minh thất bại nặng nề buộc phải rút về phía bắc Nghệ An.

Từ đó, theo đà thắng lợi, nghĩa quân Lam Sơn tiến xuống đồng bằng, giải phóng Nghệ An, Diễn Châu phía bắc, Tân Bình, Thuận Hóa phía nam, rồi tiến ra Thanh Hoa, Đông Quan... giải phóng hoàn toàn đất nước.

Cuộc khởi nghĩa giành thắng lợi, ngày 15 - 4 - 1428, Lê Lợi lên ngôi vua, tức Lê Thái Tổ, chính thức dựng lên triều Hậu Lê. Vua Lê khôi phục quốc hiệu Đại Việt, đóng đô ở Thăng Long.

Sau khi Lê Lợi lên làm vua, rút hết lực lượng ra Bắc, vùng đất Bảo Thịnh, Yên Đồng trở lại hoang vắng như trước.

Theo Gia phả họ Nguyễn Đức (còn gọi là họ Bổn), năm 1469, vua Lê Thánh Tông ra chiếu chỉ cho ông Nguyễn Đức Ly con ông Lê Nguyễn Lỗi quê ở Thanh Hóa vào đất Đỗ Gia (Hương Sơn ngày nay) chiêu dân lập ấp làm thành vùng an trấn biên cương phía tây phủ Đức Quang, thừa tuyên Nghệ An. Ông Nguyễn Đức Ly và gia nhân khi vào đây đã lấy núi Bạch Mã làm nơi dựng trại rồi chiêu dân khai phá rừng núi, khe suối tạo thành ruộng vườn, nương rẫy trồng lúa, khoai, chăn nuôi gia súc, gia cầm dần dần lập ra làng Bảo Thịnh, Yên Đồng. Tiếp theo, các dòng họ Nguyễn, họ Lê, Cù, Phạm, Phan, Hà, Trần… lần lượt tìm đến đất Bảo Thịnh, Yên Đồng cùng với dòng họ Bổn tiếp tục khai khẩn đất đai, tạo dựng cuộc sống và định cư lâu dài cho tới ngày nay. Các dòng họ này đều từ phía Bắc di dân đến, phần lớn là những người có trình độ học vấn, có kinh nghiệm sản xuất nông nghiệp và chăn nuôi.

Qua quá trình phát triển, gắn liền với sự sinh sôi nẩy nở của các dòng họ trên vùng đất này dần dần thay đổi về diện mạo và sinh thái, nên từ chân núi Mồng Gà, Đùng Đùng thấp dần về phía đông bắc, do tác động của con người và thiên nhiên nên đã tạo thành những nương ruộng để trồng trọt, thành làng thành xóm, dân cư phát triển ngày càng đông đúc.

Hiện nay, tên gọi của những vùng đất, cánh đồng, cồn cao, khe suối, lùm lòi... gợi cho ta nhớ lại dấu tích của thời xa xưa mà cha ông đã có công mở đầu khai phá trên vùng đất này như: cánh đồng Rậm, đồng Bàu Trọt, đồng Trọt Nại, Cửa Trộ, Cồn Rò, Cồn Cao, Nương Chạn, Cồn Rờm…

Với sử liệu ấy chứng tổ ông Nguyễn Đức Ly và gia nhân của ông là những người đầu tiên có công khai phá và lập nên làng Bảo Thịnh, Yên Đồng, xây cơ lập nghiệp thành vùng an trấn vững chắc. Ông Nguyễn Đức Ly được nhà vua ban hàm Thái Bảo.

 Lúc mới hình thành, làng Bảo Thịnh có các xóm: xóm Trại (xóm Trùa), xóm Rú, xóm Hóp, xóm Hội, xóm Lặn, xóm Ẻo (xóm Hương), xóm Long. Làng Yên Đồng gồm các xóm: xóm Thượng, xóm Hạ, xóm Trung, xóm Trút, xóm Long Hội, xóm Cháy, xóm Mọ (nay thuộc xã Sơn Hà). Năm 1946, Bảo Thịnh, Yên Đồng hợp với các làng Vân Sơn, Đào Đạt, Mân Xá thành xã Bình Dương. Năm 1950, hợp Bình Dương với Đông Mỹ (nay là Sơn Châu) thành xã Bình Mỹ. Năm 1954 chia Bình Mỹ ra làm 3 xã là Sơn Bình, Sơn Châu, Sơn Hà. Xã Sơn Bình có 11 xóm (thôn): Chùa, Đoài Nam, Hương Đoài, Long Hội, Yên Bình, Yên Bàu, Đình, Bình Trung, Bình Tân, Cửa Ông.

 Tuy có nguồn gốc từ nhiều nới khác nhau nhưng qua đấu tranh sinh tồn, lao động, sản xuất các dòng họ đã hình thành nên những xóm làng đông đúc như hiện nay.

Quá trình hình thành dân cư và làng xóm ở Sơn Bình nằm chung trong dòng chảy lịch sử của huyện Hương Sơn. Đó là quá trình biến lùm lòi, len lạc và các vùng đất hoang dọc triền núi thành các điểm tụ cư, sinh sống của người dân. Hiện nay, trên địa bàn xã có 38 dòng họ lớn cùng sinh sống, dù khác nhau về hoàn cảnh xuất xứ nhưng với khát vọng xây dựng quê hương, đất nước, họ đã chung sức với nhau trong cuộc đấu tranh chống chọi với thiên nhiên và kẻ thù xâm lược. Tình làng, nghĩa xóm, tính cộng đồng ngày càng được vun đắp và đề cao, tạo tiền đề để nhân dân Sơn Bình trong quá trình dựng nước và giữ nước vẫn đứng vững và vươn lên.

2. Cơ cấu tổ chức hành chính và mối quan hệ làng xóm ở Sơn Bình trước năm 1945

Trước năm 1945, bộ máy hành chính ở Sơn Bình gồm 3 bộ phận:

Thứ nhất: các quan viên chức sắc, bao gồm lý trưởng và phó lý. Họ chịu trách nhiệm thi hành mọi công việc trong làng, xã do Nhà nước quy định. Giúp việc cho lý trưởng có ngũ hương (hương bộ coi việc sổ sách, khai sinh, khai tử, hôn thú, quản lý văn thư; hương kiểm trông coi việc trị an, tuần phòng; hương bản giữ và trông coi tài sản công; hương mục coi việc đê điều, đường sá; hương dịch coi việc tế lễ, đình đám của làng, mời làng đi họp).

Thứ hai: Hội đồng kỳ mục: bao gồm các mục khoa bảng, các quan, viên chức đã nghỉ hưu, ngũ hương đã nghỉ hoặc từ chức sau hơn 3 năm làm việc và những người có phẩm hàm từ cửu phẩm trở lên. Hội có vị thế rất lớn trong làng, giữ vai trò trung gian giữa làng và Nhà nước.

Thứ ba: Các dịch, mục làng là bộ phận không được Nhà nước công nhận nhưng đảm nhiệm thừa hành nhiều công việc của làng. Họ bao gồm: các tri giáp, tri xóm, trùm dịch, trương tuần. Ngoài ra, trong làng, xã ở Sơn Bình trước kia còn có các chức chạy (tức bỏ tiền ra mua tùy theo thứ tự và vị trí của chức), bao gồm: cai xã, hương tú, viên mục, trương tuần, tri, nhiêu.

Bên cạnh cơ cấu tổ chức hành chính, làng xã ở Sơn Bình trước năm 1945 còn tồn tại những thành phần cơ bản: địa chủ, trung, bần, cố nông và tiểu tư sản.

Địa chủ: nắm giữ phần lớn ruộng đất, họ phát canh thu tô nhưng quan hệ với bần, cố nông không đến nỗi hà khắc. Nhưng từ khi thực dân Pháp sang cai trị, tầng lớp địa chủ ở đây đã có sự biến chất, phần lớn trở thành tay sai đắc lực cho thực dân Pháp khiến mâu thuẫn xã hội phức tạp hơn trước.

Phú nông tuy có chiếm hữu ruộng đất nhưng tiềm lực kinh tế mỏng. Tầng lớp này cũng bị thực dân và chính quyền phong kiến bóc lột nên có lòng yêu nước, căm thù đế quốc và tay sai. Trong phong trào đấu tranh nhiều người trong số họ luôn đứng về phía cách mạng.

Trung nông chiếm phần lớn số dân trong xã, là tầng lớp sống khá ổn định vì có một số ruộng đất, nông cụ. Họ không tham gia bóc lột mà còn phải chịu sự bóc lột nặng nề của chính quyền phong kiến - thực dân nên phần lớn có tư tưởng hướng theo cách mạng.

Bần, cố nông là tầng lớp nghèo khổ nhất, “không tấc đất cắm dùi”, chuyên sống bằng nghề làm thuê dài hạn.

Tầng lớp tiểu tư sản ở Sơn Bình khá nhiều gồm con em của gia đình lớp trên. Họ là những người được học hành, có trình độ cao nên tư tưởng tiến bộ, trong các cuộc vận động yêu nước, chống áp bức bóc lột, đòi quyền tự do dân chủ họ thường là bộ phận tiên phong.

Trong buổi đầu lập làng dựng nước, do điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt, lại chịu ràng buộc trong mối quan hệ họ hàng, láng giềng, nghề nghiệp nên người dân Sơn Bình luôn sống đoàn kết, tương thân, tương ái. Đó là cơ sở để hình thành nên các truyền thống lịch sử và cách mạng của cộng đồng cư dân nơi đây. 

III. ĐỜI SỐNG VẤT CHẤT VÀ TINH THẦN

1. Đời sống vật chất

a. Hoạt động kinh tế

Cư dân Sơn Bình từ trước đến nay chủ yếu sống bằng nghề nông nghiệp, với phương thức sản xuất mang tính tự cung tự cấp. Các cây trồng chính là lúa, ngô, khoai, đậu, lạc, các loại cây có củ khác như khoai từ, khoai vạc, khoai nưa, khoai sọ…Việc cày cấy phụ thuốc rất nhiều vào thiên nhiên, sản xuất theo lối thủ công, quảng canh. Cấy cày, trồng trọt ở mỗi làng cũng có khác nhau, làng Bảo Thịnh làm lúa Mùa nhiều, lúa Chiêm ít, làng Yên Đồng ngược lại, lúa Mùa ít, lúa Chiêm nhiều, đất ở làng Yên Đồng hợp với cây đậu, lạc, vừng, còn đất Bảo Thịnh lại hợp với ngô, khoai, sắn, củ đậu. Lúa vụ Chiêm chủ yếu cấy vào ruộng trũng, trọt khe, còn lúa vụ Mùa thì gieo cấy ở ruộng bậc thang thiếu nước hoặc đất đồi, đất bãi. Việc cày cấy chỉ chú trọng cày sâu, cuốc bẩm, bón các loại phân chuồng, phân ủ lá cây và tro bếp, còn thủy lợi thì dựa vào thiên nhiên, năm nào hạn nặng thì coi như mất trắng, vì vầy được mùa năng suất cao nhất cũng chỉ đạt 80 kg/sào, có khi chí đạt 30 - 40 kg/sào.

Các loại khoai từ, vạc, sắn được trồng quanh đồi núi, sau một năm mới có thu hoạch, đay cũng là một nguồn lương thực quan trọng bổ sung thêm nguồn lương thực, nhất là những gia đình nghèo, đông con vào những khi giáp hạt ngày 3 tháng 8, bởi vậy mà có câu:

“Được mùa chớ phụ ngô khoai

Đến khi gạo hết lấy ai bạn cùng”

Xung quanh vườn nhà trồng các loại cây ăn quả để đưa ra chợ bán như cam, quýt, chanh, bưởi, hồng, nhãn, cau…và trồng các loại rau, bầu, bí, cà chua chủ yếu làm thức ăn trong gia đình.

Về chăn nuôi: các gia đình chăn nuôi trâu bò để cày kéo, lấy phân bón ruộng, nuôi lợn gà để mổ thịt khi tế lễ, cưới xin, giỗ chạp, nhưng cũng có những gia đình nuôi trâu bò đàn ở các cánh đồng hoang hay trên núi đồi, nay còn những cái tên như cánh đồng Truồng dê, cánh đồng Cồn trâu minh chứng cho điều đó.

 Về thủ công nghiệp: lúc đầu các ngành nghề chưa phát triển, chỉ có nghề mộc, nề, đan lát phục vụ làm nhà cửa và các đồ dùng trong gia đình. Từ cuối thế kỷ XVII, kinh tế phát triển hơn, công tác kiến thiết nhiều, nhất là các đình đền, miếu mạo, nhà thờ họ cần đến nhiều nguyên vật liệu và thợ có tay nghề giỏi, biết chạm khắc, xây đắp “long, ly, quy, phượng”, “tùng, cúc, mai, lan”.

 Ở địa phương lúc đó có nghề làm gạch ngói, nghề làm đá (nay còn địa danh Cồn ngói). Ngoài ra, các cụ còn mời các thợ giỏi có tay nghề ở nơi khác về kiến thiết đền chùa. Theo Gia phả họ Trần (xóm 4), vào cuối thế kỷ 17, cụ Trần Đình Diên quê ở Thanh Chương (Nghệ An) là một thợ mộc có tài chạm trổ, Lý hương làng Bảo Thịnh mời về để kiến thiết đền chùa, ông Diên đưa cả gia đình sang ở và truyền nghề cho con cháu ở địa phương, từ đó ở làng Bảo Thịnh có nhiều thợ giỏi về nghề mộc.

 Bên cạnh đó, nghề trồng dâu, nuôi tằm, trồng bông, kéo sợi dệt vải để tự túc ăn mặc và trao đổi hàng hóa với các nơi khác, nghề này đến thời kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954) vẫn còn.

 Về thương nghiệp: trao đổi, buôn bán hàng hóa với các vùng lân cận đã có từ rất sớm. Cuối thế kỷ XVII, ở làng Bảo Thịnh đã có chợ họp vào buổi chiều tối nên gọi là chợ Hôm (ở xứ Cồn Rò), sau đó ở làng Yên Đồng có chợ họp 2 ngày 1 lần gọi là chợ Phiên (ở xóm 8). Bến đò ở bàu Hàn thông ra sông Ngàn Phố có thuyền bè qua lại để buôn bán gọi là Bến Thị (xóm 9). Vì hàng hóa ít, đi lại không thuận tiện, nên chợ Hôm, chợ Phiên không còn nữa, bà con hai làng muốn mua bán, trao đổi hàng hóa phải đi chợ Choi (Sơn Hà), chợ Gôi (Sơn Hòa) hoặc chợ Thượng, chợ Hạ (Đức Thọ), chợ Vinh (Nghệ An).

b. Ăn mặc, ở, đi lại

  Do trình độ sản xuất thấp, buôn bán còn nhỏ lẻ nên việc ăn, ở, mặc, đi lại của người dân Sơn Bình trước đây rất đơn giản. Nhà ở chủ yếu là nhà làm bằng gỗ, tranh tre, cột kê, vách đất gồm 2 gian 1 chái hoặc 3 gian hai chái, ngoảnh mặt về hướng Nam hoặc Tây Nam. Lương thực chủ yếu là: gạo tẻ, khoai, sắn, ngô; các loại thực phẩm như: cá, tôm, cua, ốc, hến bắt ngoài đồng ruộng, sông, khe suối, đập; các loại rau, củ, quả trồng trong vườn; gà, vịt, lợn, trâu, bò tự nuôi. Cơ cấu bữa ăn của người dân rất đơn giản "thịt cá là hương hoa, dưa cà là gia bản". Đói giáp hạt đang là nỗi ám ảnh lớn của người dân. Đặc biệt là nạn đói các năm 1945, 1957, 1960… 

 Ăn đã khổ, người dân Sơn Bình trước đây mặc cũng rất giản dị. Đàn bà chủ yếu mặc áo yếm, mấn (váy) còn con trai mặc quần ống buông thắt bằng giây giun, áo nâu sồng. Quần áo này được người dân tự may. Mặt khác, để chống chọi với thời tiết khắc nghiệt: nắng như đổ lửa, mưa như trút nước, rét cắt da, nhân dân ở đây còn sử dụng phổ biến áo tơi. Áo tơi được làm từ lá tro (lá cọ) và dây mây kết lại rất tiện lợi để che mưa, che nắng. Hiện nay, do điều kiện sinh hoạt của người dân thay đổi nên tơi không còn được sử dụng phổ biến thay vào đó là các loại áo chuyên phù hợp với từng loại thời tiết.

 Nhà ở của dân làng lúc bấy giờ làm ở ven chân đồi núi, bờ sông, bờ bàu nên đường đi lối lại còn nhỏ hẹp. Làng Bảo Thịnh có đường đi từ xóm Hóp, xóm Hội quanh co núi Bạch Sơn qua xóm Trại, xóm Rú, xóm Lặn đến xóm Cỏ, có hai con đường đi theo bờ ruộng, bờ khe lên núi Nhà Chàng và đền Cửa Ông đến Đá Dựng giáp xã Sơn Thủy ngày nay. Ở làng Yên Đồng có đường đi từ Cửa Khâu qua xóm Thượng, xóm Trung, xóm Hạ, xóm Yên Hội đến xóm Cháy dọc theo bờ bàu Hàn và đường xóm Trút đi qua xứ Cồn Săng, xóm Hội, xóm Cháy xuống Cồn Nền nhà đến cánh đồng Cửa Trộ, một con đường đi từ xóm Yên Hội xuống Cồn Trâu, Cồn Cỏ May, Cồn Mười Một, từ đó muốn đi đến cánh đồng Lối, Cồn Ngải, Cồn Treo Bòi phải lội qua ruộng nước.

  Bấy giờ, đường đi qua lại các xóm và giữa hai làng cũng có đoạn vừa là đường giao thông vừa là bờ đập giữ nước như đường qua đập Bàu Song, Bàu Trọt, Đa bạc, Đàng đập, Trọt Nại. Qua lại giữa hai làng phải qua đường đập Đa Bạc từ xóm Cỏ sang xóm Long Xuyên, đường Đàng đập đi từ xóm Long Xuyên sang xóm Hội, đường Trọt Nại đi từ xóm Hóp sang xóm Trút.

Cuối thế kỷ XVI, ông Nguyễn Văn Lễ đậu Phó bảng, làm quan dưới triều Lê, khi vinh quy bái tổ về làng, đã huy động dân làng đào dắp một con đường rộng 10 m, dài hơn 1000 m gọi là đường quan (xóm 1). Con đường này vừa để đi lại, luyện võ, đua ngựa và cũng là nơi vui chơi, đua vật, cướp cù trong 3 ngày tết của dân làng, ngày hội rước thần từ đền Cửa Ông về đèn Bạch Sơn. Ngoài ra, nhân dân làng Yên Đồng còn dùng thuyền “ba ván” chở lúa, khoai qua bàu Hàn ra sông Ngàn Phố xuôi chợ Thượng, chợ Vinh để trao đổi hàng hóa.

2. Đời sống văn hóa, tinh thần

 - Văn hóa nghệ thuật dân gian: Hình thức văn hóa nghệ thuật dân gian ở Sơn Bình đã có từ thời mới định cư và được duy trì từ thế hệ này sang thế hệ khác như múa hát tầm vông, hát sắc bùa, hát nhà trò, hát ví, hát xẩm, hát vè, hát đối. Nội dung là cầu mong người yên, vật thịnh, trừ quỹ trừ ma trong ngày đầu xuân hay giáo dục lòng nhân nghĩa, động viên, ca ngợi lòng dũng cảm, trung quân ái quốc, đả phá những thói hư tật xấu ở địa phương.

 Về hình thức ca hát: thường tổ chức thành phường hội như phường bát âm, phường bội, phường trò hoạt động vào những ngày đầu xuân năm mới, phục vụ đám cưới, mừng thọ, có lúc còn phục vụ ma chay.

  Kho tàng ca dao, tục ngữ cũng có nhiều những đáng tiếc đến nay cũng bị mai một dần.

  - Về tôn giáo: nhân dân Bảo Thịnh, Yên Đồng xưa, Sơn Bình nay không theo một tôn giáo chính thống nào. Các làng các xóm chỉ lập đền thờ các vị có công với nước, với dân như đền Cửa Ông, đền Bạch Sơn, đền Bà Khoa Giáp (Bảo Thịnh), đền Long Hội, đền xóm Cháy, đền xóm Trút (Yên Đồng). Ngoài ra các xóm có đền tế Thành hoàng, Long thần Thổ địa, mỗi năm tế một lần để cầu phúc, cầu mưa thuận gió hòa, làm ăn phát đạt. Các dòng họ đều có nhà thờ để hàng năm vào các dịp tết, rằm con cháu trong họ tụ họp làm giỗ tổ.

 Ở mỗi làng, ngoài đình làng để làm nơi tụ họp còn có Nhà Thánh thờ Đức Không Tử riêng làng Bảo Thịnh có chùa Yên Mã được xếp hạng Di tích lịch sử cấp Quốc gia.

  - Về kiến trúc: các đền chùa, miếu mạo, đình làng, nhà thờ họ đều có kiến trúc theo lối Việt cổ, làm bằng gỗ lợp ngói vảy nung, xây tường, khắc chạm rất tinh xảo với nhiều hình thức như mặt nạ, lưỡng long triều nguyệt, tùng, lộc, mai, điểu, long ly, quy, phượng. Điều đó phản ánh sự yêu chuộng mỹ học cổ truyền từ các triều đại trước để lại. Các công trình kiến trúc trên nay còn lại rất ít ỏi ở các nhà thờ họ và chùa Yên Mã.

  - Về lễ hội: hàng năm vào dịp lễ tết, các làng thường tổ chức tế lễ rước các vị thần từ đền này đến đền khác rất lộng lẫy và trang nghiêm, nói lên tinh thần đoàn kết, tôn trọng đạo lý uống nước nhớ nguồn của nhân dân. Ngoài lễ rước các vị thần, ở 2 Nhà Thánh các văn nhân, sỹ tử đến làm lễ thánh hiền và đàm đạo văn chương, tổ chức đánh tổ tôm, điếm, cờ thẻ, cờ tướng với tinh thân tôn trọng văn chương, văn hóa và quý trọng lẫn nhau.

  Ngoài hình thức ca hát dân gian, cũng vào dịp đầu xuân với tinh thần thượng võ, các làng thường tổ chức các hình thức đua tài đua sức như tổ chức cướp cù, đấu vật, xít đu ở vùng Cồn Rò, Khai hạ hay đánh tổ tôm, điếm ở Nhà Thánh, Cồn Rò, đua thuyền ở bàu Hàn, đua ngựa ở đường quan…

  IV. TRUYỀN THỐNG LỊCH SỬ - VĂN HÓA

  1. Truyền thống yêu nước

   Nhân dân Sơn Bình vốn có tinh thần đấu tranh anh dũng bất khuất chống giặc ngoại xâm. Thời nào cũng vậy, mỗi khi Tổ quốc lâm nguy, những người con của xã Sơn Bình sẵn sàng đứng lên góp một phần công sức của mình để bảo vệ quê hương, đất nước.

   Năm 1858, thực dân Pháp bắt đầu nổ súng xâm lược nước ta ở cửa biển Đà Nẵng và tiến quân vào chiếm lục tỉnh Nam Kỳ. Lúc này, vua Tự Đức kêu gọi cả nước kháng chiến. Với ý thức độc lập, tự chủ, tinh thần chống ngoại xâm, cùng nhân dân cả nước, nhân dân hai làng Bảo Thịnh, Yên Đồng đã hưởng ứng đóng góp sức người, sức của ra giúp - Điển hình như ông Lê Văn Hoa (xóm Long Hội) đã vận động nhân dân và bản thân bỏ ra nhiều tiền của đóng góp cho phong trào kháng chiến, họ Lê được vua Tự Đức ban cho chữ vàng “Lạc quyên nghĩa môn” (1859-1860).

    Trong phong trào Cần Vương (cuối thế kỷ XIX), Tôn Thất Thuyết đã hộ giá vua Hàm Nghi xuất bôn, hạ chiếu Cần Vương, kêu gọi sĩ phu, văn thân, hào mục đứng lên giúp vua cứu nước.

    Tiêu biểu nhất trong phong trào Cần vương là cuộc khởi nghĩa Hương Khê (1885-1896) do cụ Phan Đình Phùng (làng Đông Thái - Đức Thọ) và Cao Thắng (Tuần Lễ - nay là Sơn Lễ - Hương Sơn) lãnh đạo. Lực lượng nghĩa quân đã giao tranh với binh lính Pháp nhiều trận trong vùng hạ Hương Sơn, Đức Thọ. Ở thời điểm đó, nhân dân Bảo Thịnh, Yên Đồng người thì tình nguyện gia nhập nghĩa quân, người thì đóng góp lương thực thực phẩm, trai tráng thì tham gia vận chuyển vũ khí, lương thực. Tiêu biểu có ông Nguyễn Hạo (xóm Cháy, làng Yên Đồng) làm đến chức Hiệp quản lĩnh binh, chỉ huy chiến đấu bên cạnh cụ Phan và đã hi sinh anh dũng, cụ Lê Nùng (xóm Yên Hội) làm quan ở phong Cơ mật tại chiến khu, ông Nguyễn Văn Đôn (xóm Lặn) đã chiến anh dũng trong trận Đồn Nu (Thanh Chương, Nghệ An).

     Để ngăn chặn mọi hoạt động của nhân dân ủng hộ nghĩa quân của cụ Phan, bọn giặc đã lập vành đai trắng, bắt dân chặt đốn cây cối từ chân núi Mồng Gà qua đền Cửa Ông đến núi Nầm, chúng bắt rào làng, rào ngõ đêm ngày bắt tuần tra nghiêm ngặt nhằm ngăn chặn hoạt động của nghĩa quân. Trong thời gian này trên khu vực hai làng, ngày thì bọn quan lại cường hào cho quân truy lùng những ai tham gia nghĩa quân và vơ vét của cải, ban đêm nghĩa quân về tuyên truyền vận động quân tình nguyện để tăng cường lực lượng chiến đấu và phục vụ hậu cần.

     Trong hơn 10 năm phất cờ khởi nghĩa, nghĩa quân Hương Khê đã có cơ sở ở khắp 4 tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, cuộc khởi nghĩa đã gây được tiếng vang khắp cả nước, nhiều phen khiến cho thực dân Pháp và bọn tay sai hoảng sợ.

     Trong điều kiện núi rừng hiểm trở lại bị bao vây, cô lập, lương thực, thuốc men, vũ khí thiếu thốn, vừa chống càn vừa chống đói rét, bệnh tật. Trong một trận ác chiến, Phan Đình Phùng bị thương nặng và hi sinh ngày 28-12-1895. Năm 1896, những thủ lĩnh cuối cùng lần lượt rời vào tay Pháp.

    Bọn thực dân Pháp và phong kiến Nam triều một mặt bắt bớ trả thù những người theo cụ Phan, mặt khác chúng tăng cường vơ vét bóc lột, hà hiếp nhân dân, làm cho đời sống các tầng lớp nhân dân vô cùng khổ cực.

   Ngày 7-6-1910, nhân dân Bảo Thịnh, Yên Đồng do cậu Nho Lân (con ông Cửu Giáp, xóm Lặn) đứng lên kêu gọi nhân dân tập trung tại đình làng, mỗi người mang theo một mo cơm nắm, một bầu nước, trên đàu đội mũ mâu đài[1] định kéo lên huyện đường biểu tình đòi giảm sưu thuế nhưng tên Lý trưởng Phan Triêm đã kịp báo cho huyên đưa lính về đàn áp và xả súng bắn ông Nho Lân. Mặc dù bị thương nhưng ông vẫn đứng thẳng kêu gọi nhân dân tiếp tục đấu tranh cho đến khi ngã xuống cạnh cột nanh trước đình làng. Nhân dân vô cùng căm phẫn bọn cường hào và hô lớn “Đả đảo đàn áp”, bọn cường hào hứa phải giải quyết theo mong muốn của nhân dân mới chịu giải tán.[2]

    Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc. Pháp là nước thắng trận nhưng bị tổn thất nặng nề. Để bù đắp lại, một mặt chúng tăng cường bóc lột nhân dân trong nước, mặt khác đẩy mạnh chính sách khai thác thuộc địa. Ở trên địa bàn huyện Hương Sơn, ngoài việc bóc lột tô tức nặng nề, chúng còn đuổi dân chiếm đất ở miền tây để lập đồn điền ở Voi Bổ, Sông Con, Hà Tân, chúng bắt dân các làng trong huyện trong đó có làng Bảo Thịnh, Yên Đồng tổ chức thành từng đội, từng đoàn lên khai phá đồi núi để trồng cà phê, chăn nuôi trâu bò đàn, người dân thường nói là “đi phu đồn điền”, chịu bao cảnh khổ cực và đói rét.

      Bước sang những năm đầu thế kỷ XX, ở nước ta xuất hiện nhiều cuộc đấu tranh theo khuynh hướng dân chủ tư sản. Tiêu biểu là phong trào đòi độc lập tự chủ và cải thiện dân sinh của cụ Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng… Nhiều tầng lớp học sinh, các thầy Nho thức thời đã dấy lên tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, căm thù chế độ bóc lột hà khắc của đế quốc và phong kiến nên đã đứng lên kêu gọi nhân dân đấu tranh đòi giảm sưu thuế.

    Năm 1920, ở xóm Trút làng Yên Đồng có ông Nguyễn Thiều, ở xóm Hóp làng Bảo Thịnh có ông Lê Kiều đứng lên cùng nhân dân làm đơn kiện đòi Hương lý, cường hào phải trả lại ruộng đất công và các lùm lòi mà chúng đã chiếm đoạt, không được bắt bớ đánh đập nhân dân. Nhờ kiên trì đấu tranh nên Tri huyện phải xét xử. Kết quả ở làng Yên Đồng đã thu về được 20 mẫu đất ở xứ Cồn Cao và các lùm lòi ở bờ bàu Hàn; làng Bảo Thịnh thu về 5 mẫu ruộng ở Trọt Ác và lùm lòi ở núi Bạch Sơn, đền Cửa Ông… Cuộc đấu tranh thắng lợi làm cho nhân dân phấn khởi và cũng từ đây bọn hào lý giảm bớt hành động trắng trợn đàn áp nhân dân.

      Năm 1927-1929, dưới sự lãnh đạo của tổ chức Tân Việt, nhân dân làng Yên Đồng, Bảo Thịnh hăng hái tham gia các cuộc biểu tình, đoàn kết chống lại bọn hương lý, cường hào. Nguyễn Mật[3] và một số thầy giáo, anh em học sinh cũng họp nhau, tổ chức đọc sách báo, học chữ Quốc ngữ…và ra lập các hội dân sinh như: hội lợp nhà, hội góp tiền, hội góp thóc gạo, hội đi săn thú rừng để giúp đỡ nhau khi khó khăn.

     Cũng trong giai đoạn này, cùng với sự trưởng thành về tư tưởng chính trị, giai cấp công nhân trong nước, ở nước ngoài, người thanh niên Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, với cách mạng tháng Mười Nga, tìm ra con đường cứu nước theo khuynh hướng vô sản. Người đã dày công chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức để tiến tới thành lập một chính Đảng ở Việt Nam.

       Những năm cuối thập niên 20 của thế kỷ XX, phong trào cách mạng ở nước ta ngày càng lên cao. Ở Việt Nam lúc này xuất hiện 3 tổ chức cộng sản: Đông Dương Cộng sản đảng, An Nam Cộng sản đảng và Đông Dương Cộng sản liên đoàn hoạt động ở 3 kỳ khác nhau dẫn tới nguy cơ chia rẽ lớn.

      Trước tình hình đó, từ ngày 6-1 đến 7-2-1930, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã tiến hành Hội nghị hợp nhất 3 tổ chức cộng sản thành Đảng Cộng sản Việt Nam tại Hương Cảng (Cửu Long - Trung Quốc). Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là bước ngoặt vĩ đại cho cách mạng, chấm dứt thời kỳ khủng hoảng về đường lối. Mở đầu cuộc đấu tranh cách mạng mới theo khuynh hướng vô sản.

2. Truyền thống hiếu học

Các dòng họ đến đất Bảo Thịnh, Yên Đồng định cư và lập nghiệp phần lớn là các dòng họ có truyền thống hiếu học, có công danh, tiêu biểu là họ Nguyễn Đức (họ Bổn), họ Lê, họ Nguyễn, họ Cù, họ Phan, họ Hà… Nên ngay từ đầu đã mang đến đây truyền thống yêu nước, ý thức tự chủ, tự cường của tổ tiên, của dân tộc. Khi đến vùng đất này, họ đã sớm phát huy tinh thần tương thân tương ái, xây dựng tập tục lễ nghi lành mạnh, chăm sóc mở mang học hành thi cử. Ông Nguyễn Đức Ly không những chăm lo động viên nhân dân sản xuất, cải tạo quê hương, ông còn nuôi thầy dạy học cho con cháu và dân làng, nên lần lượt con ông là Nguyễn Công Định, cháu là Nguyễn Thế Đại đậu Hương cống (Cử nhân), chắt là Nguyễn Quang Thân đậu Hương cống được bổ nhiệm làm Tri huyện Kim Bảng (Hà Nam), chắt thứ hai là Nguyễn Văn Lễ sinh năm 1605, tiến sĩ khoa Canh Dần niên hiệu Khánh Đức năm thứ 2 (1650). Ông giữ các chức quan như Quang lộc tự khanh, Thiêm Đô Ngự sử, Tả Thị lang Bộ Hình, Đô Ngự sử, sau vì để đọng nhiều việc kiện tụng quá kỳ hạn không xét xử nên bị giáng xuống Viên ngoại lang, rồi lại được thăng Tả Thị lang Bộ Hộ và được phong tước tử. Sau khi mất, ông được tặng chức Thượng thư Bộ Công, tước bá. Con trai ông Nguyễn Văn Lễ là Nguyễn Thủ Xứng, đậu tiến sĩ khoa Quý Hợi niên hiệu Chính Hòa năm thứ 4 (1683), được bổ nhiệm làm quan Hiến sát sứ tỉnh Hải Dương, được phong tước Lĩnh Công hầu, ông Xứng đã đưa ông Nguyễn Hậu người làng An Phú, huyện Mỹ Hào, Hải Dương là thư ký sự, quan dưới quyền, tổ họ Nguyễn Đức ngày nay về sinh cơ lập nghiệp ở làng Bảo Thịnh. Hai cha con ông Nguyễn Văn Lễ, Nguyễn Thủ Xứng và các vị có học vấn trong làng đều quan tâm đến văn hóa giáo dục, mở mang học hành thi cử, đã lập Hội Tử văn tức Nhà Thánh xã thờ đức Khổng Tử đặt trên khu đất cao ở xóm Long Xuyên, xưa vào tiết đầu Xuân, các văn nhân, sỹ tử ở hai làng Yên Đồng, Bảo Thịnh và trong huyện về đây làm lễ thánh và đàm đạo văn thơ.

Tiếp đến, con trai đầu của ông Nguyễn Thủ Xứng đậu Hương cống, con trai thứ hai là Nguyễn Văn Vĩnh đậu Tiến sỹ (1721) được bổ nhiệm làm Hiến sát sứ tỉnh Nghệ An, hai ông cũng là người có công bảo tồn và tôn tạo, chú trọng đến việc học hành, xây dựng nền văn hóa quê hương như xây đắp Cồn Bút, Cồn Nghiên để ghi nhớ hội Khai bút hàng năm, hài cồn này ở giữa hai điểm nhà thờ họ Bổn và nhà Thánh xã, Cồn Bút hiện nay đang còn, Cồn Nghiên đã bị khai phá thành ruộng mạ.

  Thời bấy giờ còn truyền tụng hai câu thơ mà mỗi lần sang năm mới các cụ đồ hay về đàm đạo với nhau:

Minh niên khia bút, bút khai hoa

Vạn sự giai thành, đắc lộc đa

Với nhiều công đức nên khi ông Nguyễn Văn Vĩnh mất, nhân dân làng Bảo Thịnh lập đền thờ gọi là đền Quan Nghè, đền ở mé chân núi Bạch Sơn về phía tây, đền đến nay không còn nữa.

Việc học tập thời bấy giờ không có trường lớp mà do các nhà khá giả, hiếu học mời các ông Tú, ông Cử, thầy đồ Nho về làm gia sư để dạy con cháu và các môn sinh quanh vùng. Để đền đáp công ơn thầy, hàng năm vào dịp tháng 5, ngày tết, các môn sinh mang tiền, gạo, nếp đến lễ thầy, các môn sinh còn tổ chức ra hội đồng môn để khi thầy già yếu các môn sinh tổ chức thăm viếng, mừng tuổi, hội còn làm câu đối, hoành phi để làm lưu niệm thờ cúng thầy khi thầy qua đời.

Mỗi làng đều có chính sách khuyến học như trích ruộng công gọi là học điền để thưởng cho những người có học vị cao như Hương cống, Hiệu sinh trở lên, còn những môn sinh đậu nhất nhị tam trường đều được miễn phu đài, tạp dịch và được xếp ngang hàng với các vị chức sắc trong làng, được hưởng thụ quyền lợi cao hơn các người khác. Nhờ vậy, các kỳ thi Hương hai làng đều có con em tham dự, có nhiều người đỗ đạt cao.

Dười thời Nguyễn và thời Pháp thuộc, nhân dân tự lo mở mang dân trí. Các nhà khá giả, các cụ có trình độ học vấn như cụ Tú, cụ Cử và môn sinh Tam trường, Nhị trường đã mở các lớp học tại gia, dạy con cháu học chữ Hán, chữ Nôm. Các kỳ thi Hương ở Vinh (Nghệ An), có nhiều môn sinh đã đậu Cử nhân như ông Lê Hòe Phổ (xóm Long Hội), Nguyễn Đôn (xóm Long Xuyên), đậu Tú tài có ông Nguyễn Cửu, Hà Huy Ngoạn, các cụ Tam trường nổi tiếng lúc bấy giờ như cụ Nguyễn Dương, Nguyễn Lương, Trần Mỹ, Nguyễn Tán, Nguyễn Xuân Thiều, nhiều người được cử làm quan Huấn đạo, Tri phủ, Tri huyện, nhiều người đã trở thành thầy đồ Nho dạy con cháu trong họ như cụ Nguyễn Cận, Lê Soạn, Phạm Đồng, có cụ chuyên nghề cho đơn bốc thuốc chữa bệnh như cụ Phạm Đổng, Phan Sinh, Nguyễn Dương.

Ngoài việc học chữ hán, thời vua Khải Định năm thứ tư (1919) chuyển sang học chữ Quốc ngữ, chữ Pháp, nhiều người vừa học chữ Hán vừa học chữ Quốc ngữ như cụ Nguyễn Dương, Hà Huy Bành, Nguyễn Thúc Hồ, Lê Soạn, Lê Xuân Bích… Lúc bấy giờ, thực dân Pháp khuyến khích học chữ Quốc ngữ và chữ Pháp nhằm mục đích đào tạo người có tri thức để phục vụ cho nền thống trị của chúng. Vì vậy, thực dân Pháp và chính phủ bù nhìn nhà Nguyễn thành lập 3 trường tiểu học ở huyện Hương Sơn gồm trường Phố Châu, trường Thịnh Xá, trường Dỹ Long và 3 trường Đồng ấu: Đậu Mân, Xuân Trì, Phúc Dương. Ngoài các trường kể trên chúng còn cho mở trường tư thục. Ở hai làng Bảo Thịnh, Yên Đồng có trường tư thục dạy con em đi thi bằng Sơ học yếu lược do cụ Nguyễn Dương phụ trách. Các thầy Lê Khoát, Nguyễn Nhận, Nguyễn Quang, Lê Trình, Lê Kiểm lần lượt mở các lớp tại gia hoặc ở nhà bái đường các họ để dạy học gọi là “gia đình học hiệu”. Năm 1940, thực dân Pháp cho mở một lớp vỡ lòng và lớp 1 tại Nhà Thánh do thầy Nguyễn Nhận dạy, học sinh sau khi thi đậu Sơ học Yếu lược tổ chức tại trường Thịnh Xá, ai muốn học lên lớp nhì, lớp nhất thì phải xin sang học tại trường Thịnh Xá hay trường Dỹ Long, muốn học cấp II phải xuống học tại trường Vinh (Nghệ An) hoặc trường tư thục do nhà thờ đạo ở Đức Thọ mở.

Từ sau Cách mạng Tháng Tám 1945 đến nay, rất nhiều con em trong xã tốt nghiệp đại học, cao đẳng, 3 người đỗ Tiến sĩ, không kể những người đang làm việc ở Mỹ, Pháp, Nga.

3. Các di tích lịch sử - văn hóa

Các làng ở Sơn Bình xưa đều có đình làng và các cơ sở thờ cúng: đền Cửa Ông (thờ một vị tướng thời Lê có công với nước), đền Bạch Sơn (xóm Đông Sơn), đền Bà Khoa Giáp (Tương truyền ở đây từ xưa có một bà già nghèo đói, chuyên đi hành khất lấy tiền cưu mang những người hoạn nạn. Sau khi bà chết, dân làng Bảo Thịnh lập đền thờ, về sau bà được phong sắc thần. Thấy ngôi đền linh thiêng, một số người làng trước khi đi thi đến đây hương khói cầu khấn, xin thẻ và có người đỗ đạt. Vì vậy nhân dân gọi là đền Bà Khoa Giáp). Đền Long Hội, đền xóm Cháy, đền xóm Trút, nhà Văn Thánh… nay đều không còn. Riêng chùa Yên Mã, bị cháy, nay mới được phục hồi.

Sơn Bình có 38 dòng họ, phần lớn đều có nhà thờ họ. Nhà thờ họ Nguyễn Đức (Bổn) thờ Tiến sĩ Nguyễn Lỗi được công nhận là Di tích lịch sử văn hóa Quốc gia.

Đền thờ Nguyễn Lỗi đặt tại xóm 4 Xã Sơn Bình, huyện Hương Sơn, tỉnh  Hà Tĩnh. Đền thờ Nguyễn Lỗi được cấu trúc theo kiểu chữ Nhị bao gồm 2 bộ phận chính là hạ điện và thượng điện. Hạ điện có kết cấu kiến trúc ngang kiểu chữ nhất, gồm 3 gian 2 hồi xây tường bít đốc. Mái được lợp ngói âm dương, trên nóc mái có trang trí lưỡng long chầu nguyệt. Kết cấu nội thất nhà được kiến trúc theo kiểu tứ trụ “nội kẻ cầu, ngoại kẻ mái” rất phổ biến trong các làng quê Nghệ Tĩnh. Thượng điện kết cấu gồm 3 gian 2 hồi, xung quanh xây tường bít đốc, mái lợp ngói âm dương, trên đỉnh nóc mái ở chính giữa được đắp nổi hình hổ phù đội mặt trời, 2 đầu là hình đầu rồng được đắp nổi bằng vôi vữa và các mảnh sành sứ ghép lại. Nội thất có các bàn thờ Nguyễn Lỗi và hậu duệ của ông, có đầy đủ các đồ thờ theo truyền thống.

Mộ của ông an táng tại vùng Trại Lăng thôn Hậu Trạch (nay là xã Sơn Diệm). Về sau được cải táng đưa về núi Vũ Công (núi Nhà Chàng - Sơn Bình), nơi căn cứ sở chỉ huy ngày xưa của nghĩa quân ông cũng là nơi con trai trưởng Nguyễn Đức Ly đến sinh cơ lập nghiệp.

Đền thờ Nguyễn Lỗi được Nhà nước công nhận là Di tích lịch sử cấp Quốc gia theo Quyết định số 53/2001/QĐBVHTT ngày 28/12/2001.

          Có thể nói, những phong tục tập quán, tín ngưỡng và nét văn hóa truyền thống của nhân dân Sơn Bình tuy đã trải qua bao thăng trầm của lịch sử nhưng vẫn giữ được nhiều giá trị nhân văn. Trong quá trình sinh sống, mối quan hệ gắn bó của người dân Sơn Bình ngày càng thắm thiết, tạo nên truyền thống yêu thương, đùm bọc, chia sẻ, nhường cơm sẻ áo, xây dựng tình đoàn kết, cùng nhau thi đua lao động, xây dựng quê hương. Chính truyền thống đó đã tạo nên văn hóa đặc sắc, sức mạnh trong chống giặc ngoại xâm, đặc biệt là trong 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Đó cũng là truyền thống quý báu để Đảng bộ và nhân dân Sơn Bình phát huy trong công cuộc xây dựng và phát triển quê hương theo đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, thực hiện dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

 

 

Chương I

NHÂN DÂN SƠN BÌNH DƯỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG

ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN CÁCH MẠNG

(1930 - 1945)

 

1. Nhân dân Yên Đồng, Bảo Thịnh xã Dương Trai tham gia đấu tranh trong Cao trào Xô xiết Nghệ Tĩnh (1930-1931)

Ngày 3-2-1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã chấm dứt thời kỳ khủng hoảng về đường lối và giai cấp lãnh đạo của cách mạng Việt Nam. Dưới ngọn cờ của Đảng, nhân dân ta đã làm nên một phong trào đấu tranh mạnh mẽ mà đỉnh cao là Xô Viết Nghệ Tĩnh.

        Tại Hương Sơn, tháng 4-1930, đồng chí Nguyễn Kính (tức Liễn) một cán bộ Đảng Cộng sản Việt Nam được phái về trực tiếp gặp lãnh đạo tổ Tân Việt ở huyện Hương Sơn để bàn kế hoạch xây dựng tổ chức cộng sản. Qua thẩm tra lý lịch, qua nghiên cứu quá trình công tác và thành tích cống hiến của từng đảng viên, 17/37 đảng viên Tân Việt của toàn huyện được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam. Các đồng chí này được phân công về các địa phương xây dựng cơ sở Đảng. Lần lượt nhiều chi bộ Đảng được thành lập như: Tứ Mỹ, Đông Trung, Thịnh Xá, Phố Châu - Tình Diệm, Đông Tràng, Phúc Nghĩa, Làng Đông, Yên Nghĩa, Xuân Trì, Thọ Lộc, An Bài với tổng số 44 đảng viên. Đối với các làng chưa đủ điều kiện thành lập chi bộ đảng thì tổ chức nông hội như Gôi Mỹ, Đôn Mỹ, Đồng Lộ, Hàm Lại, Yên Đồng, Bảo Thịnh đã thu hút những phần tử tích cực rèn luyện họ trở thành những đảng viên sau này.

          Tháng 6-1930, đồng chí Nguyễn Mật quê ở làng Yên Đồng là đảng viên thuộc chi bộ trường Thịnh Xá được cử về gây dựng cơ sở và hoạt động ở làng Bảo Thịnh, Yên Đồng và các làng lân cận, đồng chí đã thành lập tổ chức nông hội đỏ được thành lập ở Yên Đồng, Bảo Thịnh, từ đó tích cực vận động quần chúng tham gia hoạt động, các đội tự vệ đỏ và một số tổ chức khác cũng lần lượt được thành lập để tập hợp quần chúng ở Cồn Rò, Cồn Săng, Cồn Mười Một để nghe cán bộ cấp trên về nói chuyện, kêu gọi quần chúng đấu tranh đòi giảm sưu, thuế, đòi không được bắt đi phu, đi lính, đòi được tự do hội họp và ủng hộ nước Nga Xô viết. Tiếp đến là hưởng ứng phong trào của nhân dân các địa bàn lân cận đấu tranh kỷ niệm ngày Quốc tế chống chiến tranh đế quốc (1-8-1930), làng Yên Đồng cùng các xã, các huyện trong tỉnh phối hợp đấu tranh, nhân ngày kỷ niệm chống chiến tranh đế quốc. Trước ngày biểu tình, đồng chí Nguyễn Mật đã hướng dẫn mọi người làm băng cờ, cách sắp xếp đội ngũ..., chỉ đạo cho hội viên nông hội đỏ rải truyền đơn. Đồng chí Nguyễn Mật lấy truyền đơn, tài liệu được được chuẩn bị sẵn, cất dấu trong tráp gỗ, ống gỗ, hay trong hộp sắc phong mà bình thường dùng để cất sách vở, quần áo đem giao cho các đồng chí trong nông hội đỏ của làng Yên Đồng để đi rải với nội dung: "Đả đảo đế quốc gây chiến tranh", "ủng hộ nước Nga Xô Viết". Sáng sớm ngày 1-8-1930 truyền đơn, cờ búa liềm, khẩu hiệu được rải và treo, dán ở các nơi công cộng như ở chợ Choi, chợ Thóc và các ngả đường. Đặc biệt cờ Búa liềm được cắm trên núi Đùng Đùng, người dân thì vui mừng, xôn xao bàn tán, còn bọn lý trưởng thì hoang mang, hoảng sợ, phải vội vàng lên cấp báo với tri huyện, tri huyện về bắt phu đoàn làng Bảo Thịnh lên núi để phá cờ.

        Kể từ đó, nhân dân hai làng, ban ngày ra đồng cày cuốc, ban đêm thì tụ họp bàn tán đến khuya mới giải tán. Trung tuần tháng 9-1930, Hội nghị toàn huyện được triệu tập ở làng Đông Trung do cán bộ Tỉnh ủy phái về, đồng chí giao nhiệm vụ của Hương Sơn là phá nhà tên Việt gian tay sai đắc lực của đế quốc Pháp là Nguyễn Khắc Niêm vừa để cảnh cáo những tên phản cách mạng trên cơ sở đó lựa chọn người tốt đưa vào các tổ chức quần chúng, vào Đảng. Để chuẩn bị cho cuộc biểu tình 19-9-1930, đồng chí Nguyễn Mật đã kịp thời tổ chức các cuộc họp tại nhà mình, phía sau nhà cây cối um tùm, gia đình giành nơi ở kín đáo nhất làm nơi hội họp, liên lạc của tổ chức Đảng, ăn nghỉ cho các đồng chí Trần Chí Tín, Trần Bình, Trần Đình Hòe, Phạm Tài, Lê Xuân Thống, Lê Kiểm, Lê Khoát... Dưới ánh đèn dầu, các đồng chí họp bàn quên cả thời gian, khi trời gần sáng thì cuộc họp mới kết thúc. Những vật dụng như đĩa sứ, bát yêu, khay gỗ hàng ngày gia đình dùng để sinh hoạt cũng được gia đình đem ra để phục vụ cơm nước.

Trong thời gian này, đồng chí Nguyễn Lê Tiếp được phân công nói chuyện tại khu vực 1 và 2 của huyện Hương Sơn, khoảng 1 giờ sáng ngày 19-9-1930, từ 1 địa điểm trung tâm huyện vang lên một hồi trống ngũ liên, kế đó là trống mõ bốn phương vang lên hưởng ứng kéo dài tới sáng, nhân dân làng Bảo Thịnh và Yên Đồng cùng các làng thuộc tổng Đậu Xá đã trang bị giáo mác, gậy gộc vượt sông sang Bãi Côi (Thịnh Xá - Sơn Thịnh ngày nay) tập trung với các làng tả ngạn, quân số lên tới hàng nghìn người, vừa đi vừa hô vang các khẩu hiệu:

- Đả đảo đế quốc Pháp và Nam triều quan lại, trả thù cho hai đồng chí Thân, Điều.

- Ủng hộ Nga Xô viết.

Đến Bãi Côi, đoàn biểu tình được lệnh dừng lại, đồng chí Nguyễn Lê Tiếp thay mặt Ban chỉ huy cuộc đấu tranh đứng lên vạch tội trạng tên Niệm đối với cách mạng Nghệ - Tĩnh nói chung và vụ án Thân, Điều nói riêng. Đồng chí vừa dứt lời, tiếng hô đả đảo đế quốc phong kiến vang lên như sấm, một khí thế vô cùng dũng mãnh, tượng trưng cho ý chí căm thù của quần chúng quyết tâm trừng trị bọn phản cách mạng đã tàn sát nhân dân trước đây.

Cuộc biểu tình đã đến đập phá nhà tri huyện Nguyễn Khắc Niêm (Đồng Vực) đập phá đồ đạc, đốt nhà sau đó giải tán.

Trước tinh thần đấu tranh mạnh mẽ của nhân dân, địch hoang mang, lúng túng, không biết nên đối phó như thế nào: nếu khủng bố sẽ bị phản đối, sẽ bị cô lập, trái lại nếu không đàn áp thì sẽ bị mang tiếng bất lực, yếu đuối. Thấy được điểm yếu của địch, Ban vận động huyện chủ trương đẩy phong trào đấu tranh của quần chúng lên một bước. Cụ thể là đòi bọn thống trị phải giảm sưu thuế. Đêm 22-9-1930, được chọn làm đêm tổ chức biểu tình toàn huyện để đưa yêu sách. Đến giờ xuất phát, mọi người rầm rập kéo nhau lên cầu Nầm (Sơn Bằng). Đến 1 giờ sáng 23-9-1930, sau khi nhân dân các xã có mặt đầy đủ tại điểm tập trung, cán bộ chỉ huy cuộc biểu tình báo cáo mục đích cuộc đấu tranh này. Dứt lời, đoàn biểu tình thẳng theo đường 8 tiến lên thị trấn Phố Châu.

Tới Phố Châu thì trời vừa sáng, tiếng hò reo, tiếng trống mỏ vang trời chuyển đất, đoàn biểu tình xông vào đập phá cửa huyện đường, đòi gặp tên Tri huyện để đưa yêu sách. Tên tri huyện mới lên Đặng Văn Oánh và tên đồn trưởng lệnh cho lính bắn vào đoàn biểu tình. Lúc đầu, quân lính không chịu bắn nhưng sau do địch thúc ép nên bọn lính lệ buộc phải bắn vào đoàn biểu tình. Tuy nhiên, với tinh thần cách mạng xung thiên, người này ngả xuống, người khác đứng lên khiến cho đồn trưởng Phố Châu và tri huyện khiếp sợ phải cúi đầu nhận yêu sách và hứa sẽ giải quyết hậu quả mà chúng gây ra trong cuộc biểu tình này.

Trong cuộc biểu tình ngày 22-9-1930, toàn huyện có 7 người hi sinh tại chỗ, 20 người bị thương, 32 người khi rút lui bị nước sông cuốn trôi.

          Sau cuộc đấu tranh này, địch từ chỗ lúng túng “đôi đường khó xử” như lời thú nhận của Khâm sứ trung Kỳ Sa-ten đã chuyển sang đàn áp thắng tay “không thương tiếc”. Bọn lính đồn và lính khố xanh kéo về làng Bảo Thịnh và làng Yên Đồng để lùng bắt cán bộ, đảng viên. Chúng đóng thêm đồn ở Rú Trụn (Lạc Phố - nay là xã Sơn Châu) để trấn áp cách mạng ở vùng hạ Hương Sơn. Chúng kéo quân về đốt gần 60 ngôi nhà của nhân dân Đôn Mỹ (Sơn Trà), chúng còn tổ chức thêm Bang tá (cả huyện có 13 tên). Riêng xã Dương Trai có Lê Văn người làng Yên Đồng, Phan Quý Du người làng Mân Xá, mỗi tên phụ trách 5 lính khố xanh để ngày đêm đi lùng sục, bắt bớ và đàn áp nhiều cuộc họp của nhân dân. Chúng còn tổ chức thêm phu đoàn để khi cần sẽ huy động đi đàn áp, chúng cấm không được tụ họp từ 3 người trở lên, không được tự do đi lại vào ban đêm, bắt dân làng phải rào làng canh gác. Ngoài ra, chúng còn dụ dỗ, lừa gạt nếu ai quy thuận đầu thú thì được khoan hồng, nếu ai có công bắt được cộng sản thì khen thưởng, tìm mọi cách nói xấu cách mạng, nói xấu nước Nga Xô viết.

        Những thủ đoạn của địch trước mắt đã gây khó khăn cho hoạt động cách mạng của ta, một số cán bộ, đảng viên bị bắt, một số tìm cách lẫn trốn lên núi hoặc tìm người thân che chở, đùm bọc do đó chỉ có những hoạt động nhỏ lẻ. Tuy vậy, đến ngày 7-11-1930 là ngày kỷ niệm Cách mạng tháng Mười Nga vẫn có rải truyền đơn, kẻ khẩu hiệu ở những nơi công cộng, vận động các tổ chức biến tướng sinh hoạt công khai để kết hợp vừa làm ăn vừa kêu gọi quần chúng hoạt động để ngấm ngầm để duy trì phong trào.

          Tháng 5-1931, để kiện toàn bộ máy lãnh đạo của huyện Hương Sơn, Tỉnh ủy giao cho Huyện ủy lâm thời triệu tập Đại hội Đảng bộ Huyện. Đại hội đã họp tại làng Gôi Mỹ (Sơn Hòa) có trên 20 đại biểu dự họp, đồng chí Nguyễn Mật là đại biểu của xã Dương Trai. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Huyện ủy chính thức: đồng chí Trần Chí Tín làm Bí thư và các ủy viên: Nguyễn Mật, Nguyễn Đình Xứng, Đinh Nho Khoách, Lê Kinh Phổ. Đại hội đã quyết định:

       - Phát động nhân dân đấu tranh đòi giảm sưu thuế;

       - Củng cố tổ chức đội tự vệ đỏ ở các làng và đội tự vệ đỏ tập trung;

       - Tổ chức khu căn cứ, tạo điều kiện để trừng trị bọn tay sai.

        Sau đại hội, tình hình vẫn hết sức căng thẳng, địch tăng cường lùng sục bắt bớ, đàn áp. Đồng chí Bí thư, phó Bí thư và nhiều đồng chí khác cũng bị bắt. Ở làng bảo Thịnh và làng Yên Đồng, địch đã bắt được đồng chí Nguyễn Mật, Phạm Tài, Nguyễn Cương, Lê Xuân Thống, còn một số đồng chí khác chạy trốn và rừng (cơ sở Tràng Sim xã Sơn Hàm) và tìm đường chạy trốn sang Lào như Nguyễn Bạn (tức Nguyễn Tất Minh), Nguyễn Thụy, Nguyễn Hữu Quang, Trần Ngô nhưng rồi cũng bị bắt giam tại Lào.

Những cán bộ, đảng viên bị bắt bị địch tra tấn dã man những anh em kiên trì chịu đựng, không khai báo gì, sau một số được thả về. Đồng chí Nguyễn Mật là thường vụ Huyện ủy, chúng biết là cán bộ chủ chốt nên chúng tra tấn hết sức tàn nhẫn như bắt đồng chí ngồi trên lưỡi cày nung đỏ, treo ngược lên xà nhà, lấy kim châm vào 10 đầu ngón tay nhưng vẫn kiên trung chịu đựng, không hé nửa lời. Chúng vẫn tiếp tục tra tấn dã man hơn khiến đồng chí ngất đi ngất lại nhiều lần, nhưng đồng chí chỉ nói một câu “tao không biết, tao không biết”. Chúng biết không khai thác được gì nên giải về nhà lao Hà Tĩnh để tiếp tục tra tấn, kết tù rồi giam đồng chí tại nhà lao Lao Bảo (Quảng Trị), đồng chí vẫn ung dung: “Cùm ơi, cùm với ta đây

Theo ta đi tới nơi đày Lao gia”

       Đến cuối năm 1931, toàn huyện đã có 114 đảng viên, cán bộ và quần chúng cảm tình bị bắt, địch đốt 67 nhà dân, tịch ký gia sản của 9 nhà khác nên bước sang năm 1932, phong trào đấu tranh tạm thời lắng xuống. Nhân dịp này, bọn mật thám, bọn tay sai ra sức hoành hành, chúng nghi ngờ người này liên quan với cộng sản, người kia liên quan với nông hội đỏ, chúng dọa giẫm các gia đình có người bị bắt hoặc vắng mặt để tống tiền. Mặt khác, chúng khuếch trương thắng lợi đã dẹp được cộng sản, chúng dùng hình thức khen thưởng cho bọn tay sai chỉ điểm đắc lực bằng “tổng dụng”, “miễn sai” hoặc cao hơn la bằng “cửu phẩm bá hộ”.                  

      2. Tham gia phong trào đấu tranh đòi quyền lợi dân sinh, dân chủ (1936 - 1939)

       Từ tháng 5-1932, một số cán bộ, đảng viên được ra tù, ban ngày tìm nơi trốn tránh, ban đêm về hoạt động đấu tranh hợp pháp, mở các lớp học chữ Quốc ngữ, vận động một số gia đình cho con em đi học lớp Đậu Mân, trường Thịnh Xá, khôi phục các lớp học tư thục để thi lấy bằng “Sơ học yếu lược”, các thầy Lê Đoản Khoát, Lê Trình, Nguyễn Nhận, Nguyễn Tấn… đều tham gia dạy học. Ngoài ra, còn tổ chức đội bóng đá, hội đọc sách để chuyền cho nhau xem một số sách báo tiến bộ như báo “Tiếng dân”, sách lịch sử cụ Phan Đình Phùng, Phan Chu Trinh…, tiến hành vận động nhân dân đấu tranh với Hương lý trong làng, sửa sang đường sá, cầu cống, cho nhân dân khai hoang, phục hóa để trồng thêm ngô, khoai, sắn, đấu tranh đòi chia lại công điền, công thổ cho người phải đóng thuế thân.

          Căn cứ vào sự thay đổi của tình hình thế giới và trong nước, tháng 7-1936, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương, do Lê Hồng Phong chủ trì, họp ở Thượng Hải (Trung Quốc). Hội nghị đã quyết định thành lập Mặt trận Thống nhất nhân dân phản đế Đông Dương (tháng 8-1938, đổi tên thành Mặt trận Dân chủ Đông Dương). Cũng vào dịp này, Mặt trận Bình dân thắng cử lên cầm quyền ở Pháp, Chính phủ Pháp cử phái viên sang Đông Dương điều tra tình hình, cử toàn quyền mới, ân xá một số tù chính trị, nới rộng quyền tự do báo chí… cũng trong thời gian này, một số cán bộ, đảng viên hết hạn tù được thả về như đồng chí Nguyễn Mật, Lê Hòe Bình, Nguyễn Hữu Quang, Nguyễn Thụy, Trần Ngô, Nguyễn Bạn, tuy họ chưa bắt liên lạc được với các đồng chí trên huyện và cấp trên nhưng các đồng chí đã hòa nhập với cán bộ trong vùng hoạt động, góp sức đưa phong trào hai làng Yên Đồng và Bảo Thịnh ngày càng mạnh hơn. Bọn lý hương bắt đầu có cảm tình đã hạn chế lùng sục, bắt bớ, cũng có lúc dự họp với tổ chức hợp pháp để đấu tranh với trên đòi quyền lợi cho dân.

        Lợi dụng thời cơ tốt, những cán bộ, đảng viên cốt cán đã sử dụng những hình thức đấu tranh hợp pháp và bất hợp pháp để tổ chức quần chúng đẩy mạnh sản xuất, ngấm ngầm đòi quyền tự do dân chủ, đòi tự do lập hội, tự do hội họp, phong trào đấu tranh đòi cải thiện dân sinh, đòi tự do dân chủ ít nhiều thu được nhiều thắng lợi.

        3. Chuẩn bị lực lượng tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong Cách mạng tháng Tám (1945)

        Bước sang năm 1939, tình hình thế gới và trong nước có nhiều sự kiện ảnh hưởng đến phong trào cách mạng nước ta. Tháng 9-1939, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Ở Pháp, Chính phủ Bình dân bị lật đổ, phe đối lập lên cầm quyền đã thi hành một loạt các biện pháp đàn áp lực lượng dân chủ ở trong nước và phong trào cách mạng ở thuộc địa. Tại Đông Dương, thực dân Pháp đã thi hành chính sách thời chiến rất phản động: thẳng tay đàn áp phong trào cách mạng của nhân dân ta, tập trung lực lượng đánh vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Pháp còn thực hiện chính sách “kinh tế chỉ huy” tăng cường vơ vét sức người, sức của phục vụ chiến tranh. Ở làng Yên Đồng, Bảo Thịnh, chúng đã bắt 20 người đi lính thợ (O.N.S) và khố đỏ sang Pháp làm bia đỡ đạn.

Trong lúc đó, ở Hương Sơn, một số cán bộ đã tìm cách liên lạc với nhau để củng cố phong trào. Các đồng chí Hồ Hảo, Lê Hữu Quán phân công nhau đi bắt liên lạc và đã gặp đồng chí Trần Quỳ - Xứ ủy viên phụ trách Bắc Trung Kỳ, trước sự quyết tâm của các đồng chí đó, đồng chí Trần Quỳ đã xin Xứ ủy cho phục hồi tổ chức Đảng. Tháng 1-1939, chi bộ ghép đầu tiên được thành lập đó là Chi bộ Sông Con - Cẩm Lĩnh gồm 4 đồng chí và trực tiếp lãnh đạo công nhân đồn điền Sông Con đấu tranh đòi tăng lương, giảm giờ làm. Tiếp đó, 4 chi bộ được thành lập ở làng Phúc Nghĩa, Yên Bài, Hữu Bằng, Phố Châu.

Tháng 4-1940, Huyện ủy lâm thời được thành lập do đồng chí Hồ Hảo làm Bí thư; ủy viên gồm các đồng chí Hồ Hùng, Nguyễn Liên. Huyện ủy mới đã khuếch trương thuận lợi, đẩy mạnh phong trào, vận động được binh lính ở các đồn Phố Châu, đồn Chợ Bộng đứng về phía cách mạng. Cùng thời gian này, do không bắt liên lạc được với Huyện ủy lâm thời nên đồng chí Trần Bình ở Tứ Mỹ và các đồng chí khác ở Xa Lang, Yên Đồng, Bảo Thịnh cũng thành lập Huyện ủy lâm thời do đồng chí Trần Bình làm Bí thư. Hương Sơn lúc này có hai Huyện ủy, và chịu sự lãnh đạo trực tiếp của hai cấp khác nhau: nhóm thượng huyện do Xứ ủy trực tiếp lãnh đạo, nhóm hạ huyện do Tỉnh ủy Hà Tĩnh trực tiếp lãnh đạo. Sau khi được thành lập, hai Huyện ủy lâm thời đã tập trung công tác phát triển cơ sở đảng và bổ sung đảng viên mới, tập trung lãnh đạo phong trào đấu tranh của nhân dân.

Ngày 22-9-1940, phát xít Nhật nhảy vào Đông Dương, nhân dân Việt Nam phải chịu cảnh “một cổ hai tròng” nô lệ. Tại Hương Sơn, phát xít Nhật đã tổ chức các công ty khai thác lâm sản như: Đại Nam, Hương Quỳ để vơ vét nguồn tài nguyên phong phú của huyện nhà. Mặt khác, chúng còn bắt nhân dân ta đào quặng sắt ở núi Thiên Nhẫn chở về Nhật, bắt dân ta nhổ lúa trồng đay, thầu dầu hoặc làm đồng cỏ chăn nuôi trâu bò. Để trấn áp tinh thần của nhân dân, Nhật đã dùng những biện pháp trừng phạt thời trung cổ như: treo người lên lấy lửa thui hoặc xẻo tai, mũi, đập đầu vào tường cho vỡ sọ.

Trước những chính sách đàn áp, bóc lột, vơ vét của thực dân Pháp và phát xít Nhật, đời sống của nhân dân ta vô cùng khó khăn, vất vả. Mâu thuẫn giữa nhân dân với thực dân Pháp và Phát xít Nhật ngày càng gay gắt.

Nhiều cuộc khởi nghĩa đã nổ ra, tiêu biểu như Khởi nghĩa Bắc Sơn (27-9-1940); khởi nghĩa Nam Kỳ (23-11-1940); Binh biến Đô Lương (13-1-1941).

Ở Hương Sơn, bọn Đại Việt thân Nhật đội lốt các tổ chức Phật học ráo riết hoạt động tuyên truyền cho thuyết “đồng chủng, đồng văn”, cho chủ nghĩa đại Đông Á của Nhật.[4]

Trước tình hình đó, các đồng chí Huyện ủy Hương Sơn đã quyết tâm xây dựng lực lượng vũ trang, dưới hình thức đi săn thú rừng để luyện tập quân sự, tiến hành học tập tài liệu du lích của Trung ương, tổ chức quyên góp tiền bạc của nhà giàu rồi cử người sang Lào mua súng đạn, và có ý định muốn bạo động cướp đồn Phố Châu để lấy súng.

Tháng 12-1940, đồng chí Hồ Hảo và các đồng chí lãnh đạo khác đều lần lượt bị bắt. Lúc này chỉ còn một mình đồng chí Lê Hữu Quán là cán bộ Xứ ủy trực tiếp lãnh đạo phong trào nên cơ sở quần chúng ở vùng thượng huyện chủ yếu ở các đồn điền vẫn duy trì được.[5]

Trong thời gian các đồng chí bị địch giam, chúng đã dùng mọi thủ đoạn dã man, xảo quyệt, hết mua chuộc, dụ dỗ đến đánh đập, tra tấn để khai thác nhưng không thu được kết quả, chúng liền chuyển các đồng chí về giam ở đồn Phố Châu để chờ ngày tuyên án. Đêm 11-3-1941, nhân phiên gác của đồng chí Nguyễn Tửu[6], các đồng chí trên thực hiện chủ trương đã bàn thoát ra khỏi nhà lao. Rạng sáng hôm sau bọn đồn huyện mới biết tin, hốt hoảng báo động toàn huyện, huy động tất cả binh lính khố xanh, khố lục đi lùng sục khắp nơi, nhưng nhờ được nhân dân che chở, các đồng chí đã về đến địa điểm quy định.

        Một tháng sau khi Hồ Hảo vượt ngục, chi ủy Sông Con được khôi phục và tiến hành lãnh đạo công nhân đấu tranh đòi bọn chủ đồn điền xóa bỏ tô phụ, tô rừng, tăng thêm tiền công. Tiếp đó, Huyện ủy lâm thời được khôi phục và liên lạc được với Tỉnh ủy Nghệ An và Xứ ủy Trung Kỳ. 

        Thấm nhuần chủ trương đón thời cơ khởi nghĩa của Xứ ủy, được các cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam Kỳ, đặc biệt là vụ binh biến chợ Rạng (Đô Lương) động viên thôi thúc, ngày 22-4-1941, Huyện ủy Hương Sơn họp bàn kế hoạch hành động. Hội nghị chủ trương sẽ phối hợp với Huyện ủy Thanh Chương, đánh chiếm đồn Phố Châu, giải thoát một số cán bộ lãnh đạo của Huyện ủy đang bị giam giữ, thu vũ khí rồi rút về vùng thượng huyện, dựa vào các đồn điền Sông Con, Voi Bổ xây dựng căn cứ, chuẩn bị lực lượng để khi có điều kiện sẽ khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền trong hai huyện Hương Sơn và Thanh Chương. Hội nghị quyết định lấy số súng đạn của tên chủ đồn điền Sông Con Phe-rây để thực hiện chủ trương quan trọng trên. 

         Ngày 5-5-1941, Hồ Hảo cử một cán bộ đi gặp Xứ ủy xin ý kiến về vấn đề này nhưng không được Xứ ủy chấp nhận. 

         Ngày 13-5, Huyện ủy lại họp, khẳng định quyết tâm thực hiện chủ trương trên. Ngay đêm đó, đồng chí Hồ Hảo thân hành đi gặp Xứ ủy để thuyết phục Xứ ủy cho phép thực hiện nguyện vọng tha thiết của các đồng chí trong Huyện ủy lâm thời Hương Sơn. Trong lúc đó, do không kìm giữ được nhiệt tình cách mạng, thấy cơ hội thuận lợi các đồng chí ở nhà quyết định hành động. Ngày 14-5-1941, Phe-rây bị giết chết. Toàn bộ vũ khí gồm 14 khẩu súng và 700 viên đạn các loại bị quân cách mạng tịch thu. Hôm sau các đồng chí lại tiếp tục trừng trị tên bang tá Hồ Dũng Tài, khi y được lệnh của tri huyện Hương Sơn, lùng sục xung quanh vùng đồn điền Sông Con. 

  Thế là trong thời gian chưa đầy 24 tiếng đồng hồ, hai vụ trừ khử nối tiếp nhau xảy ra đã làm rung chuyển bộ máy thực dân, phong kiến ở Hương Sơn và ở hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh. Bọn thống trị hoang mang và tìm mọi cách để đối phó. Theo lệnh của Pháp và Nam Triều đã phái tên Trần Mậu Trinh (tên này người tỉnh Quảng Ngãi làm tri phủ ở Triệu Phong (Quảng Trị) là một tên uống máu người không tanh, có rất nhiều nợ máu với nhân dân, làm chức Khâm sai đại thần, làm đặc mệnh mà ra dẹp loạn, hắn đã dùng hết tài khuyển mã, sử dụng mọi mưu thâm kế độc để phá hoại phong trào cách mạng ở Hương Sơn. Chúng bắt nhân dân ta phải phát quang làng mạc, mở rộng đường xá vào các ngõ hẻm để tiện cho việc hành quân vây quét; lập thêm đồn bốt và tổ chức một chiến dịch bắt bớ, chém giết cán bộ, đảng viên. Chúng cấm tất cả các cuộc họp nhóm có từ 5 - 7 người, giải tán các tổ chức tương tế, tương trợ còn lại; bố trí bọn chó săn rình mò theo dõi mọi cử chỉ, hành động của những ai chúng tình nghi.

Cuộc khủng bố trắng hết sức căng thẳng, một số cán bộ như đồng chí Trần Đoàn lại bị bắt, một số lánh sang Lào như đồng chí Hồ Lượng, Hồ Nhu, Nguyễn Tửu, đồng chí Hồ Hảo sang Thanh Chương tìm đến nhà Nguyễn Dương Ba làm chỗ dựa để tiêp tục hoạt động, không ngờ bị tên này phản bội. Hồi 18 giờ 10 phút ngày 16-12-1941, Hồ Hảo sa vào ổ phục kích và bị bắn chết. Đồng chí Hồ Nhu, Hồ Lượng cũng bị bắn chết ở Lào. 

         Kẻ thù hèn hạ đem xác Hồ Hảo về Hương Sơn rồi kéo đi khắp các con đường lớn trong huyện. Sau đó, chúng dựng thi thể đã rách nát của đồng chí lên trước cửa đồn điền Sông Con, lấy hai thanh gươm kề ngang cổ. Chúng bắt gia đình Hồ Hảo làm “chay”, cúng lễ cho Phe-rây suốt ba ngày đêm…

        Phong trào cách mạng ở Hương Sơn thời kỳ này tạm lắng xuống, song ngọn lửa yêu nước căm thù giặc, căm thù áp bức bóc lột của nhân dân Hương Sơn nói chung, Sơn Bình nói riêng vẫn âm ỉ cháy chờ dịp vùng lên.

           Ngày 9-3-1945, Nhật hất cẳng Pháp độc chiếm toàn bộ Đông Dương. Ngay sau đó, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Bản Chỉ thị nêu rõ: kẻ thù duy nhất lúc này là phát xít Nhật và phát động cao trào kháng Nhật cứu nước nhằm tập hợp quần chúng chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền. Trong đó tập trung nhiệm vụ trước mắt là: đẩy mạnh tuyên truyền, lập lực lượng xung kích vũ trang, phá kho thóc Nhật cứu đói, phát động chiến tranh du kích, lập căn cứ để giải phóng từng phần, từng vùng.

           Lúc bấy giờ, cả miền Bắc nói chung, huyện Hương Sơn nói riêng đang đối mặt với nạn đói vô cùng khủng khiếp. Cả nước có gần 2 triệu người chết đói. Riêng hai làng Yên Đồng, Bảo Thịnh có 137 người chết đói, xóm Lặn (làng Bảo Thịnh) có 31 người chết, có gia đình chết không còn người nào, một số người phải vượt Trường Sơn sang Lào để kiếm ăn, nhiều người phải bỏ xác hai bên khe suối dọc đường 8.

          Trong khi đó bọn nha lại, lý hương hai làng lo tổ chức mừng độc lập và tuyên truyền ca ngợi Nhật, ủng hộ Nhật, học chữ Nhật… Chúng tổ chức thanh niên và Bảo an đoàn xuống tận các làng bắt buộc phải tập quân sự, học tiếng Nhật, ra sức bắt phu, bắt lính, vơ vét lúa gạo của dân.

          Đứng trước tình hình đó, thanh niên, học sinh hai làng Yên Đồng, Bảo Thịnh đứng ra đấu tranh với bọn lý hương, đòi chúng phải lấy gạo ở quỹ nghĩa thương, trợ chiến ra phát chẩn hoặc bán cho nhân dân để cứu đói và bắt các nhà giàu có cũng phải làm như vậy. Kết quả đấu tranh thắng lợi, số gạo nhận về anh em thanh niên đứng ra cấp phát cho những hộ hết ăn, nấu cháo đưa đến tận nhà cho những người đói lã, nhờ đó mà nhiều gia đình cầm cự được cho đến khi có lúa gặt về.

 Tháng 4-1945, tình hình trong nước cũng như ngoài nước có nhiều chuyển biến có lợi cho cách mạng của ta. Nắm bắt được điều đó, ngày 9-4-1945, một số đồng chí cán bộ ở Hương Sơn đã tổ chức họp ở làng Thịnh Xá để bàn kế hoạch đón thời cơ. Mọi người thống nhất lấy việc chống sưu, thuế trước mắt để phát động phong trào đấu tranh và xây dựng lại cơ sở Đảng, cơ sở quần chúng. Trong cuộc họp này, mọi người đã thống nhất lập ra Huyện ủy lâm thời gồm các đồng chí: Trần Bình, Hồ Cương, Trần Chí Tín rồi phân công nhau về công tác tại cơ sở để bắt liên lạc với các đồng chí cũ. Nhiệm vụ chính là thuyết phục, vận động quần chúng không nạp sưu, thuế trên cơ sở đó để thành lập chi bộ, tổ chức Việt Minh. Cùng thời gian này, Việt Minh liên tỉnh đã thành lập ở Hương Sơn hai căn cứ du kích ở Tràng Sim (Sơn Trường), khe Tràm (Sơn Lâm), mỗi nơi đều có một trung đội du kích tập trung, ngày đêm luyện tập quân sự.

Sau khi ra đời, Huyện ủy lâm thời liên tiếp tổ chức nhiều cuộc họp để kịp thời đề ra các nhiệm vụ, đặc biệt là thúc đẩy thành lập mặt trận Việt Minh ở các làng xã. Ở làng Yên Đồng, đồng chí Nguyễn Mật về nắm tình hình hoạt động của thanh niên đang làm công tác cứu đói rồi liên lạc với các đồng chí Lê Kiểm, Lê Cự Hiếu, Hà Huy Mạn, Lê Mưu, Lê Kính, Nguyễn Cửu. Còn ở làng Bảo Thịnh, đồng chí Trần Ba về nắm tình hình hoạt động của thanh niên và tổ chức Bảo an đoàn, đã liên lạc với đồng chí Nguyễn Nhận, Nguyễn Hữu Quang, Nguyễn Tấn, Nguyễn Xuân Thiều…

Đầu tháng 5-1945, đồng chí Mật đã triệu tập các đồng chí ở làng Yên Đồng họp tại nhà đồng chí Lê Cựu Hiếu. Hội nghị đã nghe đồng chí Mật nói rõ về tình hình thế giới và trong nước, 10 chính sách của Việt Minh, cũng như Việt Minh đã có cơ sở khắp nơi trong cả nước và đã giải phóng được 7 tỉnh ở Việt Bắc. Hội nghị đã bàn nhiệm vụ trước mắt là vận động nhân dân không nộp sưu thuế cho bọn lý hương và tìm hiểu đối tượng kết nạp vào Việt Minh. Hội nghị đã quyết định chính thức thành lập chi bộ Việt Minh do đồng chí Lê Kiểm làm Bí thư.

Cuối tháng 5-1945, đồng chí Trần Ba đã triệu tập Hội nghị thành lập chi bộ Việt Minh làng Bảo Thịnh tại nhà đồng chí Nguyễn Nhận, hội nghị cử đồng chí Nguyễn Nhận làm Bí thư chi bộ và nhất trí chuyển bộ phận thanh niên Phan Anh hoạt động theo hướng của chi bộ Việt Minh, chuyển bảo an đoàn thành đội tự vệ đỏ do đồng chí Quang và đồng chí Ngoạn phụ trách; đồng thời ở làng Yên Đồng cũng tổ chức thành lập đội tự vệ đỏ do đồng chí Nguyễn Đức Cúc phụ trách. Chi bộ Việt Minh hai làng được thành lập đã tích cực hoạt động, trong lúc vụ chiêm năm ấy được mùa, nạn đói giảm hẳn, nên đã tập trung vào công tác vận động nhân dân không nộp sưu thuế, bọn lý hương cũng phải nghe theo và báo cáo lên huyện trưởng.

Trong khi đó, tình hình cách mạng cả nước có sự chuyển biến mau lẹ, để kịp thời nắm thời cơ giành chính quyền về tay nhân dân, tháng 7-1945, Việt Minh liên tỉnh đã cử đồng chí Mai Kính về Hương Sơn tổ chức họp Việt Minh các làng trong huyện cùng với Huyện ủy tại nhà đồng chí Trần Đoàn (Tứ Mỹ-Sơn Châu), đồng chí Mai Kính truyền đạt tình hình thắng lợi của quân Đồng minh, sự thất bại gần kề của bọn phát xít và phổ biến một số công việc trước mắt phải tiến hành. Cụ thể:

- Xây dựng, củng cố lại tổ chức Đảng ở cơ sở, tổ chức thêm đảng viên mới;

- Củng cố Mặt trận Việt Minh, tổ chức tự vệ cứu quốc;

- Nắm chắc tình hình bọn phản cách mạng để có kế hoạch chặn đứng bàn tay phá hoại của chúng ngay từ đầu.

- Thành lập 3 đoàn tuyên truyền vũ trang về 3 vùng trong huyện để phổ biến đến tận nhân dân 10 chính sách của Việt Minh, tổ chức treo cờ đỏ sao vàng ở nơi công cộng.

Các đồng chí ở làng Bảo Thịnh, Yên Đồng sau khi dự họp đã tổ chức lễ treo cờ ở đình làng Yên Đồng và trên cây đa ở xứ Cồn Rò của làng Bảo Thịnh. Khi lá cờ đỏ sao vàng được kéo lên, nhân dân có mặt hôm đó rất vui mừng, phấn khởi, sau lời tuyên bố lý do của đồng chí Bí thư chi bộ Việt Minh, nhân dân đã hô vang khẩu hiệu:

- Ủng hộ Mặt trận Việt Minh;

- Đả đảo phát xít Đức - Ý -  Nhật

       Mặc dù bọn lý hương và bọn Nhật hành quân ngoài quốc lộ 8 biết nhưng chúng không giám làm gì.

       Tiếp theo đó, các đội tuyên truyền vũ trang của huyện do đồng chí Hồ Thị Lan (Sơn Bằng) phụ trách xuất phát từ đình làng Tứ Mỹ sang làng Bảo Thịnh, Yên Đồng và các làng khác trong vùng đã nói rõ sự thất bại của bọn phát xít và tình hình hoạt động của của Mặt trận Việt Minh, nói rõ 10 chính sách của Việt Minh, kêu gọi nhân dân các làng chuẩn bị lực lượng, đón thời cơ, có lệnh là đứng lên khởi nghĩa giành chính quyền về tay mình. Từ đó, nhân dân nhất là lực lượng thanh niên và học sinh càng tin tưởng vào Mặt trận, có quyết tâm cao chờ lệnh để hành động. Sau đó, hai chi bộ Việt Minh đã mở cuộc họp, thành phần tham dự: chi bộ Bảo Thịnh gồm các đồng chí Nguyễn Chấn, Nguyễn Vỹ, Lê Trọng Hoàn, Lê Trình…; chi bộ Yên Đồng có Cù Xuân Hòe, Hà Huy An, Nguyễn Đức Cúc, Lê Hòe Mai, Lê Cự Quán. Lần này có nhiều thanh niên và nông dân gia nhập Mặt trận.

       Để chuẩn bị cho việc cướp chính quyền được trọn vẹn, ở làng Bảo Thịnh, đồng chí Trần Ba, Nguyễn Nhận, ở làng Yên Đồng, đồng chí Nguyễn Mật, Lê Kiểm đã trực tiếp đến gặp và nói chuyện với bọn lý hương về tình hình cách mạng tiến triển mau lẹ, các ông phải thấy rõ tình hình không thể đảo ngược, các ông phải có trách nhiệm ủng hộ cán bộ và thực hiện các điều mà Mặt trận Việt Minh đã tuyên bố, không được bắt bớ, đàn áp nhân dân, nếu làm trái các ông sẽ bị nhân dân kết tội. Còn về nhân dân, ngày lo công việc đồng áng, đêm tập trung để nghe cán bộ Việt Minh về các xóm nói chuyện, anh em tự vệ lo tập luyện quân sự. Đợt này, đồng chí Lê Cự Hiếu được huyện điều lên hoạt động ở tổng Dỹ Ốc và Đậu Xá.

       Ngày 13-8-1945, Nhật đầu hàng quân Đồng minh vô điều kiện. Quân Nhật ở Đông Dương rệu rã. Chính phủ thân Nhật Trần Trọng Kim hoang mang. Điều kiện khách quan thuận lợi cho tổng khởi nghĩa đã đến. Cùng ngày, Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh lập tức thành lập Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc; Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc ban bố “Quân lệnh số 1”, chính thức phát lệnh Tổng khởi nghĩa trong cả nước.

          Từ ngày 14 đến ngày 15-8-1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào (Sơn Dương - Tuyên Quang). Trên cơ sở phân tích chính xác tình hình, Hội nghị nhất trí với quyết định của Ban Thường vụ Trung ương Đảng phải kịp thời phát động và lãnh đạo toàn dân Tổng khởi nghĩa giành chính quyền độc lập hoàn toàn. Thời cơ ngàn năm có một cho nhân dân Yên Đồng, Bảo Thịnh và nhân dân toàn huyện Hương Sơn giành chính quyền đã tới. Tình thế cách mạng trực tiếp đã xuất hiện. Toàn thể nhân dân đã sẵn sàng, gấp rút chuẩn bị đón lấy thời cơ khởi nghĩa giành chính quyền.

          Tối 16-8-1945, Huyện ủy triệu tập hội nghị gồm các chi ủy Việt Minh các làng và các cán bộ huyện về họp tại nhà đồng chí Trần Đoàn để nghe phổ biến về chỉ thị của Trung ương, đón thời cơ khởi nghĩa cướp chính quyền. Trong lúc đang họp thì đồng chí Nguyễn Trọng Tạo đại diện của Ủy ban khởi nghĩa liên tỉnh Nghệ Tĩnh về truyền đạt chủ trương của Trung ương. Đồng chí nói rõ: Nhật hoàng đã tuyên bố đầu hàng Đồng minh vô điều kiện ngày 13-8-1945, Tổng bộ Việt Minh đã ra lệnh Tổng khởi nghĩa toàn quốc, và nói rõ kế hoạch tổng khởi nghĩa của hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, đồng chí đã cùng Huyện ủy vạch kế hoạch khởi nghĩa giành chính quyền và thành lập Ủy ban khởi nghĩa.

          Ngày 17-8-1945, Huyện ủy lâm thời Hương Sơn tổ chức Hội nghị Việt Minh toàn huyện tại nhà đồng chí Nguyễn Trịnh (làng Tứ Mỹ - Sơn Châu). Hội nghị đã quyết định khởi nghĩa giành chính quyền với phương châm là:

- Lấy bạo lực chính trị của quần chúng làm lực lượng chủ yếu, có lực lượng vũ trang làm hậu thuẫn;

- Đấu tranh kết hợp với thương lượng;

-  Lấy huyện trước, làng xã sau;

Hội nghị đã vạch ra kế hoạch giành chính quyền như sau:

- Phát động quần chúng toàn huyện biểu tình bao vây huyện lỵ Phố Châu, buộc tên huyện trưởng phải giao chính quyền cho nhân dân, lấy đội du kích Tràng Sim làm hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh trong trường hợp bọn trên ngoan cố không chịu giao chính quyền, sẽ dùng vũ lực để giải quyết.

- Hội nghị quyết định để làng Tình Diệm (gần chỗ Pháp trú quân) vùng dậy giành chính quyền trước.

- Bắt giữ những tên tay sai đế quốc phong kiến có nợ máu với nhân dân để ngăn chặn hành động phá hoại của chúng có thể xảy ra

- Dời trụ sở làm việc của chính quyền cách mạng về làng Xuân Trì, làng cách xa đường 8 để tránh sự xô xát không cần thiết có thể xẩy ra với tàn quân Nhật.

- Chia huyện ra làm hai vùng với hai nhiệm vụ khác nhau: vùng thượng huyện từ Hữu Bằng trở lên có nhiệm vụ tập trung tại Phố Châu cùng với đội du kích chiến khu Tràng Sim giành chính quyền tại huyện và đồn Phố Châu; vùng hạ huyện gồm các làng thuộc khu vực 1 và 2 có nhiệm vụ tập trung ở Xuân Trì để tiếp đón chính quyền cách mạng dời về đây và cùng toàn huyện ăn mừng thắng lợi. Hội nghị chọn ngày 19-8-1945 là ngày giành chính quyền trong toàn huyện.

Cuối cùng, Hội nghị đã bầu Ủy ban khởi nghĩa huyện gồm các đồng chí Trần Bình, Hồ Thị Nhiệm, Nguyễn Đình Xứng, Nguyễn Quang Tấn do đồng chí Trần Bình làm Chủ tịch.

Tiếp thu chủ trương của Hội nghị Việt Minh huyện, chiều ngày 17-8, tại làng Bảo Thịnh và Yên Đồng, Ban Chấp hành chi bộ Việt Minh đã họp hội nghị mở rộng để nghe cán bộ dự họp về truyền đạt lệnh tổng khởi nghĩa toàn quốc và kế hoạch khởi nghĩa của huyện.

Ở làng Yên Đồng, thấy tình hình có nhiều thuận lợi nên hội nghị quyết định cướp chính quyền chiều ngày 18-8-1945 sẽ vận động nhân dân nổi dậy cướp chính quyền và thống nhất cử đồng chí Lê Kiểm làm Chủ tịch Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời, ủy viên gồm các đồng chí: Hà Huy Mạn, Lê Kính... Ở làng Bảo Thịnh, tình hình có khó khăn hơn, bọn hào lý đứng đầu là lý trưởng Nguyễn Văn Quang còn tìm mọi cách cản trở nên hội nghị quyết định để sau ngày huyện cướp chính quyền xong sẽ về cướp chính quyền làng. Hội nghị đã cử đồng chí Nguyễn Tấn làm Chủ tịch Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời, ủy viên gồm các đồng chí Nguyễn Hữu Quang,...

Sau hội nghị, cán bộ làng Yên Đồng phân công nhau về các xóm tuyên truyền, vận động nhân dân, mặt khác sử dụng loa phát thanh kêu gọi toàn dân chuẩn bị sẵn sàng chuẩn bị ngày 18-8 tập trung tại đình làng để đi giành chính quyền. Thanh niên lo kẻ khẩu hiệu, phụ nữ lo may cờ đỏ sao vàng, dân quân tự vệ sắp xếp lại đội ngũ, phân công nhau phụ trách trống, chiêng, trang bị giáo mác, gậy gộc...

 Như vậy, đến giữa tháng 8-1945, mọi việc chuẩn bị về lực lượng, tổ chức để tiến tới tổng khởi nghĩa đã cơ bản hoàn thành, chỉ cần có lệnh là sẽ tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền. 

4. Khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi

Sáng ngày 18-8, nhân dân ai nấy cũng đều dậy sớm để tranh thủ ra đồng sản xuất, thanh niên đi treo khẩu hiệu ở các nơi công cộng, làm lễ đài trước đình làng. Trưa hôm đó, ở các đền xóm, các nhà thờ, đình làng nổi trống, mỏ, chiêng đã vang lên một khúc nhạc hùng tráng. Đến 14 giờ chiều, đoàn người từ các xóm, người thì cầm cờ, người thì gánh trống chiêng, tự vệ thì trang bị gậy tre vót nhọn, giáo mác, rầm rập tiến về đình làng, vừa đi vừa hô khẩu hiệu lẫn trong tiếng trống chiêng:

“ Đả đảo phát xít Nhật

 Đả đảo chính quyền bù nhìn tay sai

 Mặt trận Việt Minh muôn năm!

 Việt Nam độc lập muôn năm!”.

Sau khi các đoàn biểu tình kéo về tập trung đông đủ trước lễ đài với khí thế sôi sục. Đồng chí Lê Kiểm trưởng ban khởi nghĩa lên tuyên bố chương trình nghị sự và làm lễ chào cờ, lá cờ đỏ sao vàng được kéo lên đỉnh cột phất phới tung bay, nhân dân đồng loạt hô vang các khẩu hiệu. Tiếp đến, đồng chí Lê Kiểm trưởng ban khởi nghĩa tuyên bố: Kể từ giờ phút này, ngày 18-8-1945, chính quyền cũ do hương lý nắm bấy lâu nay bị đánh đổ và xóa bỏ! Cũng từ giờ phút này về sau, chính quyền cách mạng do Mặt trận Việt Minh đấu tranh giành lại là của dân, do dân quyết định!”. Bọn hương lý cúi đầu giao lại sổ sách, triện đồng cho chính quyền cách mạng và hứa xin chấp hành nghiêm chỉnh mọi chủ trương, chính sách của Mặt trận và xin nhân dân tha lỗi cho những việc làm sai trái trước đây.

Đồng chí Nguyễn Mật thay mặt Ủy ban khởi nghĩa huyện nói rõ tình hình thế giới, phát xít Nhật đầu hàng, nhân dân toàn quốc nổi dậy giành chính quyền và giải thích 10 chính sách của Mặt trận Việt Minh đã công bố. Tiếp đến, Ủy ban cách mạng của làng ra mắt nhân dân: đồng chí Lê Kiểm làm Chủ tịch, các ủy viên gồm: Lê Kính, Hà Huy Mạn, Nguyễn Liêu, Cù Xuân Hòe, đồng thời kêu gọi quần chúng nhân dân trong làng đoàn kết, hết sức ủng hộ chính quyền cách mạng làm tròn nhiệm vụ.

Đồng chí Lê Kiểm thay mặt Ủy ban cách mạng hứa sẽ làm tròn trọng trách và công bố kế hoạch ngày 19-8-1945 sẽ cùng nhân dân toàn huyện tham gia cướp chính quyền ở Phố Châu.

Tối 18-8-1945, các làng tuyên truyền vận động của hai làng xuống tận các xóm để phổ biến ngày cướp chính quyền của huyện, đội tự vệ sắp xếp lại đội ngũ chỉnh tề để bảo vệ tốt cuộc biểu tình lớn. Đội tự vệ làng Yên Đồng do đồng chí Nguyễn Đức Cúc và đồng chí Nguyễn Liên phụ trách.

6 giờ sáng 19-8-1945, nhân dân hai làng Yên Đồng và Bảo Thịnh đã tập trung đông đủ với khí thế hồ hỡi, phấn khởi, hàng ngũ chính tề vừa đi vừa đánh trống vừa hô khẩu hiệu, rầm rập cùng các làng khác qua đò Choi tiến về làng Xuân Trì (nay là Sơn An) để giữ cuộc mít tinh lớn chào mừng Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời của huyện ra mắt.

Trước khí thế của hàng vạn người, tên huyện trưởng Nguyễn Thạc Cường cúi đầu xin giao nộp lại triện đồng và chính quyền cho nhân dân, đồng chí Trần Bình thay mặt cấp ủy Việt Minh nhận bàn giao, đồng thời tuyên bố thành lập Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời của huyện gồm:

  • Trần Bình (Tứ Mỹ - Sơn Châu)
  • Hồ Thị Nhiệm (Sơn Bằng)
  • Nguyễn Đình Xứng (Sơn Long)
  • Nguyễn Quang Tấn (Xuân Trì - An Lễ)

        Toàn thể Ủy ban ra mắt đồng bào, tiếng reo hò, vỗ tay hoan hô như sấm dậy.

        Sau khi giành chính quyền ở huyện, ngày 20-8, làng Bảo Thịnh tiến hành hội nghị mở rộng nhằm phát động quần chúng thật mạnh mẽ để trấn áp bọn lý hương ngoan cố. Đêm đó, nhân dân các xóm và các đội tự vệ đã tuần hành biểu dương lực lượng, hô khẩu hiệu: Đả đảo bọn cường hào ngoan cố.

         Sáng 21-8, nhân dân tham gia biểu tình đã tập trung đông đủ ở sân đình làng. Sau lễ chào cờ, đồng chí Lê Kiểm trưởng ban khởi nghĩa đọc danh sách các đồng chí trong Ủy ban nhân dân cách mạng do đồng chí Nguyễn Tấn làm Chủ tịch, ủy viên gồm các đồng chí Nguyễn Nhận, Nguyễn Hữu Quang. Đồng chí Nguyễn Ngoạn, Nguyễn Tám chỉ huy đội tự vệ được lệnh vào từng nhà của bọn lý hương ngoan cố để buộc họ mang sổ sách, triện đồng ra giao nộp cho chính quyền cách mạng và bắt bọn này ngồi dưới cột cờ với vẻ mặt tái mét. Bàn giao xong, bọn chúng cúi đầu xin nhân dân tha cho tội chết, hứa từ nay xin chấp hành đầy đủ mọi chính sách của Mặt trận và Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời.

         Thắng lợi của cách mạng tháng Tám ở làng Yên Đồng, Bảo Thịnh có ý nghĩa hết sức to lớn, góp phần cùng cả nước xóa bỏ chế độ thực dân phong kiến trên đất nước ta. Mở ra kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập dân tộc, dân chủ và tự do. Thắng lợi của cách mạng tháng Tám là kết quả của 15 năm đấu tranh kiên cường của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, tạo tiền đề vật chất và tinh thần để nhân dân ta bước sang giai đoạn mới của cách mạng.

 

 

 

       

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Chương II

LÀNG BẢO THỊNH, YÊN ĐỒNG TRONG CỘNG ĐỒNG XÃ BÌNH DƯƠNG - BÌNH MỸ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ HẬU PHƯƠNG, CHI VIỆN TIỀN TUYẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC

(1945 - 1954)

 

            I. BƯỚC ĐẦU XÂY DỰNG CHẾ ĐỘ MỚI, CHUẨN BỊ KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC (9-1945 - 12-1946)

    Cách mạng tháng Tám (1945) thành công là sự kiện vĩ đại trong lịch sử  dân tộc Việt Nam. Nó đã đập tan hai tầng xiềng xích nô lệ của thực dân Pháp kéo dài hơn 80 năm của phát xít Nhật, đồng thời lật nhào chế độ quân chủ chuyên chế tồn tại ngót ngàn năm trên đất nước ta. Với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám, nước ta từ một nước thuộc địa trở thành một nước độc lập dưới chế độ dân chủ cộng hoà, nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước.

   Sau ngày Cách mạng tháng Tám thành công, tình hình ở hai làng Bảo Thịnh, Yên Đồng rất sôi động, các từng lớp nhân dân tưng bừng, phấn khởi, náo nức đón chào cách mạng, đón chào độc lập tự do, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Mặt trận Việt Minh, sẵn sàng chấp hành mọi nhiệm vụ do Ủy ban nhân dân cách mạng đề ra, hăng hái gia nhập các đoàn thể quần chúng như Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, Nông dân cứu quốc, Phụ lão cứu quốc,… gia nhập lực lượng du kích, dân quân tự vệ và hăng say luyện tập. Chính quyền cách mạng tuyên bố xóa bỏ các tập tục lạc hậu như ma chay, đồng bóng, rượu chè cờ bạc, mê tín dị đoan, bắt bọn lý hương, cường hào trả lại đất đai, tài sản mà trước đây chúng đã chiếm đoạt của nhân dân; hướng dẫn nhân dân bầu các xóm trưởng để điều hành mọi công việc trong xóm theo phương thức mới.

  Tuy nhiên, sau ngày "Tuyên ngôn độc lập" chưa được bao lâu thì thực dân Pháp đã cho quân ngang ngược tiến công đánh chiếm Sài Gòn và nhiều nơi khác ở Nam Bộ, rồi Bắc Bộ và các tỉnh miền Trung... Chính quyền non trẻ của ta cùng một lúc phải đối mặt với nhiều thứ giặc: giặc đói, giặc giốt và giặc ngoại xâm.

  Trong hoàn cảnh đó, các làng Bảo Thịnh, Yên Đồng cũng gặp muôn vàn khó khăn, thách thức. Tuy được mùa nhưng một số gia đình vẫn thiếu đói trầm trọng do nạn đói đầu năm để lại, trình độ dân trí thấp, trên 90% nhân dân mù chữ, cuộc sống còn lạc hậu, tệ nạn mê tín dị đoan còn nặng nề, trình độ hiểu biết về cách mạng rất thấp, một số người nửa mừng nửa lo, cán bộ Việt Minh mới lên nắm chính quyền trình độ quản lý công việc chưa quen, còn bỡ ngỡ, lúng túng, nhiều khi không giải đáp được những thắc mắc của quần chúng. Đã thế, còn có người tuyên truyền, xuyên tạc sự thực, nhất là số con cái nhà giàu có, tình hình đó làm cho một số quần chúng hoang mang dao động. Khó khăn nối tiếp khó khăn đã đặt ra cho nhân dân Yên Đồng, Bảo Thịnh nhiều thử thách và trách nhiệm cần phải vượt qua.

  1. Xây dựng, củng cố tổ chức Đảng, chính quyền

        Để xây dựng và củng cố chính quyền cách mạng, thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, chỉ một ngày sau khi tuyên bố độc lập, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời ngày 3-9-1945, thấy rõ tính cấp bách phải củng cố cơ sở pháp lý của nhà nước mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề nghị sớm tổ chức tổng tuyển cử và ban hành Hiến pháp.

          Trước những thuận lợi và khó khăn gặp phải sau Cách mạng tháng Tám 1945, Huyện ủy lâm thời giao cho Chủ tịch Mặt trận Việt Minh huyện triệu tập Hội nghị Việt Minh toàn huyện để quán triệt chủ trương của Mặt trận Việt Minh tỉnh, cảu Huyện ủy nhằm nhanh chóng ổn định tình hình.

         Thực hiện chủ trương của Huyện ủy, Mặt trận Việt Minh và Ủy ban nhân dân cách mạng hai làng Bảo Thịnh, Yên Đồng tiến hành hội nghị mở rộng. Do chưa có chi bộ Đảng nên tổ chức Việt Minh ở làng vừa đảm nhận chức năng tập hợp, vừa lãnh đạo quần chúng, mọi chủ trương đều thông qua tổ chức Việt Minh cơ sở để vận động quần chúng nhân dân thực hiện. Hội nghị đã quyết định một số vấn đề quan trọng như: ở làng Yên Đồng bổ sung ông Phạm Quang làm ủy viên kinh tế nhân sách; ông Lê Quang, Cù Trung, Phan Cương phụ trách đội dân quân du kích nam; ông Cù Xuân Hòe phụ trách Mặt trận Việt Minh, ông Nguyễn Tuyến phụ trách Nông dân cứu quốc, ông Hà Huy Bành phụ trách Phụ lão cứu quốc, bà Lê Thị Nhự phụ trách Phụ nữ cứu quốc, bà Lê Thị Chiểu phụ trách đội dân quân nữ; dân quân du kích buổi sáng tập trung sản xuất, buổi chiều luyện tập.

          Ở làng Bảo Thịnh bổ sung ông Lê Luyện làm ủy viên quân sự; xúc tiến lập danh sách các hội viên hội cứu quốc ở các xóm và cử ra Ban Chấp hành; ở làng ông Lê Quyền phụ trách Nông dân cứu quốc, ông Nguyễn Nhận phụ trách Mặt trận Việt Minh, ông Nguyễn Vỹ phụ trách Thanh niên cứu quốc, bà Nguyễn Thị Viên (bà Nhận) phụ trách Phụ nữ cứu quốc; ông Lê Chỉ, Nguyễn Tám phụ trách đội dân quân du kích nam; bà Lê Thị Mại phụ trách đội dân quân nữ.

          Sau hội nghị, hai làng đã tiến hành thu hồi tài sản và ruộng đất công, bắt bọn cường hào trả hoa lợi mà trước đây bọn chúng đã chiếm dụng để chia cho số người đủ từ 18 tuổi trở lên, không phân biệt nam, nữ, bình quân trên dưới 1 sào.

          Sau ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản “Tuyên ngôn độc lập” khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không lâu, ngày 4-9-1945, Huyện ủy cử một đoàn cán bộ về hai làng phổ biến bản Tuyên ngôn đó, nhân dân Bảo Thịnh, Yên Đồng vô cùng phấn khởi, buổi tối các xóm tổ chức rước đuốc tuần hành trong làng, vừa đi vừa hô vang khẩu hiệu:

Nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa muôn năm

Chủ tịch Hồ Chí Minh muôn năm!

Ngay sau khi cách mạng tháng Tám thắng lợi, thực dân Pháp đã âm mưu trở lại thống trị nước ta, vào cuối tháng 8-1945 một đại đội địch do 1 tên quan ba Pháp chỉ huy dùng Na Pê (trên đất nước Lào) làm bàn đạp tấn công theo đường 8 để đánh chiếm thị xã Hà Tĩnh và thành phố Vinh.

 Để kịp ngăn chặn từ xa âm mưu của địch, Ủy ban quân sự tỉnh Hà Tĩnh quyết định tổ đội gồm 40 đội viên giải phóng quân Đức Thọ và 20 đội viên giải chức một đại phóng quân Hương Sơn do đồng chí Trần Đình Bé - Chỉ huy trưởng giải phóng quân Hương Sơn tiến đánh Na Pê. Lực lượng tự vệ chiến đấu của Hương Sơn được huy động mỗi thôn một tiểu đội, mang theo vũ khí và lương thực phối hợp chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Tự vệ làng Bảo Thịnh do đồng chí Nguyễn Ngoạn làm tiểu đội trưởng, làng Yên Đồng do đồng chí Cù Trung làm tiểu đội trưởng tham gia trận đánh này. Nhân dân tiễn đưa và động viên con em lên đường chiến đấu rất rầm rộ. 10 giờ sáng ngày 06-9-1945, các đơn vị từ một địa điểm tập trung ở Hương Sơn xuất phát, 3 giờ sáng 07-9 thì tới Na Pê. Trời rất tối, quân ta chia làm 6 toán tiến đánh. Địch có kinh nghiệm đề phòng đánh trả quyết liệt nên trận chiến đấu diễn ra ác liệt. Trước khí thế tấn công của ta địch thất bại bỏ đồn tháo chạy, ta chiếm đồn thu toàn bộ vũ khí quân trang, quân dụng, cuộc tiến công địch ở Na Pê đã thu được thắng lợi hoàn toàn, 1 trung đội địch bị tiêu diệt, trong đó có 2 sĩ quan chỉ huy Pháp tử trận và 1 quan hai Pháp bị bắt làm tù binh.

Chiến thắng Na Pê làm nức lòng nhân dân trong toàn huyện, tăng thêm niềm tự hào, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đó là chiến công của lòng yêu nước thiết tha, là tinh thần quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh của bộ đội giải phóng quân và tự vệ ta, tiêu biểu là đồng chí Trần Đình Bé - một cựu sĩ quan sớm giác ngộ cách mạng từ thời kỳ tiền khởi nghĩa đã chỉ huy sáng suốt, gan dạ và đã anh dũng hy sinh trong trận này. Lễ truy điệu đồng chí Bé được tổ chức trọng thể tại sân vận động Phố Châu có rất đông đồng bào trong huyện tới dự. Sau đó bộ đội và nhân dân đã rước linh cữu đồng chí về tại sân vận động Thịnh Xá (Sơn Thịnh), quê hương của đồng chí để bà con thân thích và đồng bào đến viếng trước lúc đưa đồng chí về nơi an nghỉ cuối cùng tại nghĩa trang quê nhà.[7] Nhân dân hai làng Bảo Thịnh, Yên Đồng cũng được tổ chức sang dự lễ truy điệu và tiễn đưa.

Sau chiến thắng Na Pê, bộ đội ta còn giúp bạn Lào giải phóng thêm một số đồn bốt và bản làng dọc đường 8, đẩy mạnh công tác vũ trang tuyên truyền, xây dựng lực lượng và chính quyền cách mạng ở hai huyện Khăm Cợt và Lạc Xao thành những căn cứ kháng chiến của tỉnh Khăm Muộn.

Chiến thắng Na Pê và tình hình phát triển triển của phong trào cách mạng ở Hương Sơn không chỉ tăng thêm lòng tin tưởng của nhân dân mà còn cảm hóa được những người trước đây còn chưa tin tưởng vào cách mạng nay càng ủng hộ và tham gia thực hiện các chủ trương của mặt trận và chính quyền đề ra.

Sau quá trình hoạt động của một số đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương trước đây và một số cán bộ hoạt động cách mạng tiền khởi nghĩa của Mặt trận Việt Minh từ đầu năm 1945 cho đến khi hai làng giành được chính quyền. Trên cơ sở đó, chi bộ Đảng Cộng sản Đông Dương ở làng Bảo Thịnh và Yên Đồng được thành lập theo sự chỉ đạo của Huyện ủy Hương Sơn, nhằm trực tiếp lãnh đạo nhân dân thực hiện các nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng tiếp theo. Ngày 10-9-1945, đồng chí Nguyễn Mật thay mặt Thường vụ Huyện ủy về triệu tập các đồng chí Lê Kiểm, Hà Huy Mạn, Cù Xuân Hòe họp tại nhà đồng chí Lê Kiểm[8] để thành lập chi bộ Đảng.

Hội nghị đã thảo luận và quyết nghị một số công tác sau:

1. Phát động nhân dân tăng gia sản xuất để chống đói, thu hoạch vụ mùa, chuẩn bị sản xuất vụ chiêm, tích cực trồng khoai, các loại rau, tổ chức các đội đi khai hoang ở Sông Con, Voi Bổ, Hà Tân để trồng thêm ngô, khoai, sắn để chống đói giáp hạt tháng 3 năm sau;

2. Vận động học sinh đi học tiếp và tổ chức lại các lớp học ở hai làng đã học trước đây và mở thêm các lớp vở lòng;

3. Sắp xếp các tổ chức dân quân tự vệ để tiếp tục tập luyện quân sự, sẵn sàng chiến đấu và phục vụ chiến đấu khi cần thiết;

4. Tiếp tục củng cố tổ chức quần chúng, hướng dẫn các tổ chức đó kết nạp thêm hội viên và có nội dung sinh hoạt thiết thực, có trọng tâm;

5. Tuyên truyền, phổ biến mục đích và nhiệm vụ của Đảng cho một số hội viên Việt Minh để kết nạp thêm đảng viên mới.

Hội nghị đã bầu đồng chí Lê Kiểm làm Bí thư chi bộ đầu tiên ở làng Yên Đồng.

Tháng 10-1945, chi bộ làng Bảo Thịnh được thành lập gồm các đồng chí: Nguyễn Nhận, Nguyễn Tấn, Nguyễn Hữu Quang, trong đó đồng chí Nguyễn Nhận được bầu làm Bí thư.

Như vậy, chỉ một thời gian ngắn sau khi giành chính quyền, hai làng Yên Đồng, Bảo Thịnh đã thành lập được chi bộ Đảng Cộng sản Đông Dương để lãnh đạo nhân dân tiếp tục sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn cách mạng tiếp theo.

Ở Hương Sơn, Huyện ủy lâm thời đã bắt tay ngay vào việc tổ chức, xây dựng lại hệ thống Đảng, chính quyền. Trên cơ sở quán triệt chủ trương của Đại hội Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh, tháng 12-1945, Đại hội Đảng huyện Hương Sơn được tổ chức tại đồn điền Sông Con[9]. Tham dự Đại hội có khoảng bốn chục đại biểu, các đại biểu đã bàn và quyết định những vấn đề quan trọng như:

- Tiếp tục đẩy mạnh công tác phát triển, củng cố tổ chức Đảng, chú ý các địa phương chưa có chi bộ, chưa có đảng viên.

          - Củng cố, mở rộng Mặt trận Việt Minh và các đoàn thể cứu quốc, củng cố chính quyền, tiến hành hợp xã theo chủ trương của tỉnh, hoàn thành tốt công tác bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân.

          - Củng cố lực lượng vũ trang, quyết tâm cùng các đơn vị của tỉnh phòng ngự vững chắc biên giới, bảo đảm an ninh trật tự xã hội.

          - Xây dựng nền tài chính của huyện.

- Đẩy mạnh các cuộc vận động sản xuất, tiết kiệm, bình dân học vụ, xây dựng đời sống mới lên cao hơn nữa.

Thành công của Đại hội Đảng bộ huyện vào giữa lúc cách mạng đang đứng trước muôn vàn khó khăn, thù trong giặc ngoài đang tìm mọi cách chống phá cách mạng. Đảng đã lãnh đạo nhân dân cướp chính quyền thành công nhưng vẫn phải hoạt động bí mật, tranh thủ mọi thuận lợi cho công tác đối nội cũng như đối ngoại... Nghị quyết của Đại hội huyện Đảng bộ làm cho các chi bộ, đảng viên thêm tin tưởng, phấn khởi, quyết tâm lãnh đạo nhân dân vượt qua thời kỳ khó khăn.

Trên cơ sở Chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc” của Trung ương, Nghị quyết của Đại hội tỉnh Đảng bộ, huyện Đảng bộ, hai chi bộ Bảo Thịnh, Yên Đồng đã lãnh đạo nhân dân bước sang năm 1946, công tác đầu tiên là bầu cử Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp.

   Ngày 06-1-1946, ngày bầu cử Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thật sự là một ngày hội lớn, nhân dân hai làng Bảo Thịnh, Yên Đồng cùng với nhân dân cả nước nô nức đi bầu cử Quốc hội khóa I. Đây là việc làm hết sức mới mẻ chưa từng xảy ra từ trước đến nay đối với dân ta. Vì thế, để cuộc bầu cử diễn ra thành công, trước ngày bầu cử, Ban vận động tiến hành công tác tuyên truyền sâu rộng bằng nhiều hình thức: hội họp, phát thanh, giăng khẩu hiệu, áp phích để nhân dân hiểu rõ vị trí, tầm quan trọng của việc bầu cử Quốc hội; nghĩa vụ và quyền lợi của người tham gia bầu cử. Nhờ có sự chuẩn bị chu đáo nên sau khi nghe Chủ tịch Hồ Chí Minh phát đi lời kêu gọi: “Ngày mai là ngày vui sướng nhất của đồng bào ta, vì ngày mai là ngày tổng tuyển cử, vì ngày mai là ngày đầu tiên trong lịch sử Việt Nam mà nhân dân ta bắt đầu hưởng dụng quyền dân chủ của mình... Ngày mai mọi người đều nên vui vẻ hưởng dụng quyền lợi của một người dân độc lập”[10], từ 7 giờ sáng ngày 6-1-1946, khắp các đường làng, nhân dân trong xã đổ về các điểm bầu cử để tự tay cầm lá phiếu bỏ vào hòm. Khi mọi người tập trung, tổ bầu cử đã giới thiệu danh sách từng ứng cử viên, sau đó ai biết chữ thì viết còn không biết chữ thì nhờ người viết giúp mình. Nhiều cụ già vừa gấp lá phiếu bỏ vào hòm vừa cảm động không cầm nổi nước mắt vui sướng lẫn nghẹn ngào bởi đã hơn 70 tuổi nhưng đây là lần đầu tiên họ được cầm lá phiếu chọn người đại diện cho mình đứng ra điều hành đất nước. Cuộc bầu cử đạt kết quả cao, có 100% cử tri tham gia bỏ phiếu, lựa chọn được các vị: Tạ Quang Bửu, Lê Lộc, Trần Bình, Trần Hữu Duyệt, Hồ Đăng Ninh, Nguyễn Nhã và Nguyễn Đình Lương là đại biểu Quốc hội.

  Sau ngày bầu cử Quốc hội, đồng chí Nguyễn Hữu Quang được Tỉnh ủy điều động vào tỉnh công tác. Hai làng tiếp tục đẩy mạnh sản xuất, dân quân du kích tăng cường tập luyện, tổ chức thêm Hội tương tế nhằm giúp đỡ nhau khi gia đình hội viên gặp khó khăn, hoạn nạn, hội còn phát động hội viên khai hoang phục hóa để trồng thêm hoa màu, ngô, khoai, sắn. Ngoài ra, Hội còn giúp đỡ giải quyết những khó khăn, xích mích trong thôn xóm làm cho tình làng nghĩa xóm thêm đoàn kết gắn bó thắm thiết.

  Đầu tháng 2-1946, Uỷ ban nhân dân cách mạng huyện triệu tập Hội nghị mở rộng gồm cán bộ huyện và bí thư, chủ tịch các làng để thảo luận, bàn bạc hai công tác quan trọng:

  - Bầu cử Hội đồng nhân dân cấp tỉnh vào ngày 17-2-1946;

  - Bàn việc chủ trương của tỉnh về việc bỏ tổng, nhập các làng nhỏ thành xã lớn.

  Theo chủ trương đó, chi bộ, Mặt trận Việt Minh, Uỷ ban nhân dân cách mạng hai làng đã mở hội nghị quán triệt đến tận cán bộ và đảng viên các xóm về việc bầu cử Hội đồng nhân dân cấp tỉnh.

  Đến ngày 17-2-1946, cũng như ngày bầu cử Quốc hội, cử tri đi bỏ phiếu đông đảo và tín nhiệm tuyệt đối các vị do Mặt trận Việt Minh giới thiệu. Hương Sơn có 3 đại biểu trúng cử vào Hội đồng nhân dân khóa đầu tiên của tỉnh.

2. Chống giặc đói, giặc dốt

Sau khi có quyết định của chi bộ và được sự hướng dẫn của Huyện ủy Hương Sơn, đảng viên hoạt động vững vàng hơn, nên các công tác đề ra đều thực hiện đạt kết quả tốt.

Diệt giặc đói: sau khi giành được chính quyền, đất nước ta phải đương đầu với nhiều khó khăn về kinh tế, nhất là hậu quả của nạn đói cuối năm 1944 đầu năm 1945. Thực hiện lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Tăng gia sản xuất!, tăng gia sản xuất ngay!, tăng gia sản xuất nữa!”, khắp nơi nhân dân hăng hái sản xuất lương thực và rau màu, các bờ bãi, cồn cát, lùm lòi hoang hóa đều được khai phá để trồng trỉa, ruộng đất công được giao cho nhân dân cày cấy, vận động vơi dân lên Hạ Vàng (Sơn Tây) để trồng cây lương thực. Song song với tăng gia sản xuất, nhà nào cũng có ống tiền tiết kiệm, hũ gạo cứu đói, phong trào: nhường cơm sẻ áo” được nhân dân hưởng ứng nhiệt liệt. Hội nông dân, Hội phụ nữ tổ chức ban cứu tế, quyên góp giúp đỡ những gia đình còn thiếu đói với phương châm “lá lành đùm lá rách, lá rách ít đùm lá rách nhiều”.

Hai làng còn quyết định thu lại tất cả công điền, công thổ kể cả số ruộng đất trước đây đã bị một số người có quyền thế chiếm đoạt để chia cho nông dân cày cấy. Khi tiến hành công tác này cũng gặp nhiều khó khăn vì Ban phân chia chưa nắm hết được diện tích ruộng đất, phải đấu tranh với bọn Lý hương cũ để họ trao trả những phần đất mà họ chiếm, mặt khác trong nhân dân có người không muốn chia cho phụ nữ, người già vì họ còn có quan niệm cũ là “ăn rọng cọng giỗ” nghĩa là phải chịu “phu dài tạp dịch” mà số người đó không thể làm được. Cuối cùng nhờ giải thích, vận động, đấu tranh có tình có lý nên việc phân chia ruộng đất đạt kết quả tốt. Nhân dân phấn khởi, nhất là các gia đình trước đây nghèo đói, không có ruộng đất phải đi cày thuê, cuốc mướn nay có ruộng đất để làm ăn, không phải nộp tô. Nhờ vậy mà phát động phong trào vụ Chiêm Xuân trồng thêm hoa màu. Ngoài ra, huyện còn cấp cho mỗi làng 20 con trâu bò tịch thu của địa chủ đồn điền về phân phối cho nhân dân làm sức cày kéo.

Nhờ những biện pháp tích cực đó, nhu cầu lương thực bước đầu đã được giải quyết, nhân dân sớm thoát khỏi nạn đói trước mắt.

Diệt giặc dốt: Với chính sách “ngu để trị” của thực dân Pháp làm cho hơn 90% dân số nước ta mù chữ. Vì thế, ngay sau ngày độc lập, 8-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra Sắc lệnh thành lập Nha bình dân học vụ để trực tiếp chỉ đạo công tác xóa nạn mù chữ trong cả nước. Thực hiện chủ trương, các địa phương tiến hành thành lập Ban Bình dân học vụ để trực tiếp chỉ đạo công tác này. Ban Bình dân học vụ hai làng được thành lập, ở làng Yên Đồng do ông Hà Huy Bành làm trưởng ban; làng Bảo Thịnh do ông Lê Hòe Thống trưởng ban. Ở mỗi xóm đều có cán bộ bình dân phụ trách. Để cổ động tinh thần đến lớp xóa mù chữ của nhân dân, ở khắp các thôn xóm, biểu ngữ, khẩu hiệu: “tiền tuyến diệt xâm lăng, hậu phương diệt giặc dốt” được treo khắp nơi. Ngoài biện pháp tuyên truyền mọi người tự nguyện đi học, Ban bình dân học vụ còn thực hiện biện pháp bắt buộc như: tiến hành kiểm tra nghiêm khắc tại các bến đò, cổng chợ dùng bảng đen, phấn trắng để kiểm tra, nếu ai không biết đọc biết viết thì buộc phải trở về. Vì thế, phong trào bình dân học vụ giai đoạn này diễn ra sôi nổi. Tất cả mọi người không phân biệt gái trai, già, trẻ hễ ai chưa biết chữ đều vận động đi học bình dân. Phương pháp dạy mới, học mới theo vần chữ quốc ngữ mới của hội truyền bá chữ quốc ngữ mang lại kết quả rõ rệt. Người học nhanh biết, dễ nhớ. Chỉ sau vài ba tháng đã có một lớp người đầu tiên thoát nạn mù chữ. Thành công này càng củng cố niềm tin cho mọi người.

    3.  Xây dựng Quỹ độc lập và ủng hộ đồng bào Nam bộ kháng chiến

         Trong điều kiện nền tài chính quốc gia trống rỗng, ngày 4-9-1945, Trung ương Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động phong trào toàn dân xây dựng “Quỹ độc lập” và “Tuần lễ vàng” (từ ngày 17 đến 24-9-1945) nhằm khắc phục những khó khăn, thiếu thốn về tài chính của đất nước.

        Tiếp thu chủ trương và kế hoạch của Mặt trận và chính quyền huyện Hương Sơn, Ủy ban nhân dân cách mạng hai làng đã tổ chức vận động nhân dân nhiệt liệt hưởng ứng, các đội tuyên truyền của hai làng xuống tận các xóm tấp trung nhân dân nói rõ mục đích, ý nghĩa của việc xây dựng “Quỹ độc lập”, “Tuần lễ vàng”. Là một địa phương nghèo, thuần nông, đa số dân là bần, cố nông nhưng với tấm lòng yêu nước nồng nàn, toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân hai làng Bảo Thịnh, Yên Đồng đã nhiệt tình hưởng ứng phong trào.

        Nhiều chị em phụ nữ đã tháo hoa tai, nhẫn, trằm vàng ủng hộ Chính phủ. Tính chung trong hai cuộc vận động này nhân dân hai làng đã quyên góp được 70 chỉ vàng, góp phần nhỏ bé vào nên tài chính quốc gia đang trong giai đoạn khó khăn.

         Trong lúc Đảng, Chính phủ và nhân dân ta đang ra sức xây dựng chính quyền vừa mới giành được, thì ngày 23-9-1945 được sự hậu thuẫn của quân Anh, thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta bằng việc gây hấn ở Sài Gòn. Ngay sau đó, Trung ương Đảng đã xác định rõ kẻ thù chính của nhân dân ta lúc này là bọn thực dân Pháp xâm lược và kêu gọi quân và dân Nam Bộ đoàn kết, quyết tâm kháng chiến. Đồng thời, động viên đồng bào cả nước hướng về miền Nam ruột thịt chống Pháp. Những chuyến xe, những đoàn tàu từ Bắc vào Nam mang theo những đoàn quân “Nam tiến” cùng lương thực, thực phẩm, vũ khí, thuốc men... ngày đêm chuyển bánh.

         Hòa cùng không khí chung của cả nước, nhiều con em của hai làng Bảo Thịnh, Yên Đồng như hai tiểu đội dân quân do đồng chí Nguyễn Ngoạn và đồng chí Cù Trung phụ trách sau khi tham gia trận đánh đồn Na Pê đã cùng đơn vị của huyện vào chiến đấu ở mặt trận Bình - Trị - Thiên, Quảng Nam - Đà Nẵng. Trên chiến trường, các anh đã chiến đấu anh dũng, hai đồng chí Nguyễn Quỳnh, Nguyễn Thuận đã hy sinh vào năm 1947, nhận được giấy báo tử nhân dân xã Bình Dương đã làm lễ truy điệu trọng thể.

          II. THÀNH LẬP XÃ BÌNH DƯƠNG, LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN XÂY DỰNG QUÊ HƯƠNG VÀ PHỤC VỤ CHIẾN ĐẤU CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC (3-1946 - 5-1950)

Từ cuối tháng 12-1945, Uỷ ban nhân dân cách mạng tỉnh chủ trương bỏ địa giới các tổng, hợp các thôn nhỏ thành xã lớn và phân định lại địa giới một số huyện. Hương Sơn lúc bấy giờ có 5 tổng và 59 thôn.

Cuộc vận động hợp xã là một cuộc đấu tranh kịch liệt chống những tư tưởng thủ cựu, bảo thủ, cục bộ địa phương và những luận điệu tuyên truyền, phá rối của một số ít phần tử chống đối. Dưới sự lãnh đạo của Huyện ủy và các chi bộ, công tác tuyên truyền, vận động được tiến hành sâu sắc và khôn khéo, làm cho đại đa số nhân dân hiểu rõ lợi ích của việc hợp xã, sẵn sàng đoàn kết giữa thôn này với thôn khác. Sau ba bốn tháng tích cực vận động, công việc hợp xã đã thu được thắng lợi. Chỉ có 8 thôn cũ hoặc vì đã có quy mô lớn, hoặc vì địa lý cách trở được để nguyên nhưng đều gọi là xã, 37 thôn khác được lập lại thành 13 xã mới.[11]

Đầu tháng 3-1946, đồng chí Trần Bình và đồng chí Nguyễn Mật thay măt Huyện ủy về triệu tập Hội nghị giữa hai chi bộ Yên Đồng, Bảo Thịnh tại nhà đồng chí Nguyễn Nhận. Lúc bấy giờ các làng Vân Sơn, Đào Dạt, Mân Xá chưa có đảng viên nào. Tham dự cuộc họp còn có đồng chí Quế - Thường vụ Tỉnh ủy Hà Tĩnh. Tại Hội nghị đồng chí Trần Bình nêu rõ chủ trương của huyện và đã được tỉnh duyệt là hợp 5 làng Bảo Thịnh, Yên Đồng, Vân Sơn, Đào Dạt, Mân Xá hợp lại thành một xã lớn và trình bày Kế hoạch thực hiện theo 3 bước:

Bước 1: Họp đảng viên hai chi bộ để quán triệt chủ trương thành lập xã và thành lập một chi bộ xã công tác sau khi thành lập xã mới.

Bước 2: UBND cách mạng huyện đứng ra triệu tập UBND cách mạng, Mặt trận Việt Minh, BCH các đoàn thể cứu quốc để bàn công tác tiến hành và bầu UBND cách mạng lâm thời của xã.

Bước 3: Tổ chức bầu cử HĐND và UBND cách mạng xã mới.

Hai chi bộ đều nhất trí theo chủ trương, kế hoạch của tỉnh, huyện đề ra và tiến hành bầu Chi ủy mới, trong đó đồng chí Nguyễn Nhận được bầu giữ chức vụ Bí thư chi bộ; đồng chí Nguyễn Tấn giữ chức vụ Phó Bí thư; đồng chí Lê Kiểm - Chi ủy viên.

Tháng 4-1946, tiến hành Bầu cử HĐND, kết quả bầu được 21 đại biểu vào HĐND xã mới:

- Làng Bảo Thịnh gồm các ông: Nguyễn Tấn, Nguyễn Nhận, Lê Luyện, Nguyễn Xuân Thiều, và bà Lê Thị Quang;

- Làng Yên Đồng gồm các ông: Lê Kiểm, Phạm Quang, Phan Cương, Lê Kính, Hà Huy Bành;

- Làng Mân Xá gồm các ông: Phan Quý Du, Hà Huy Hưởng, Nguyễn Tiệp, Nguyễn Mai;

- Làng Đào Đạt gồm các ông: Nguyễn Nại, Nguyễn Đóa, Phạm Dương;

- Làng Vân Sơn gồm các ông: Nguyễn Tứ, Nguyễn Trần, Nguyễn Xanh.

Sau một tháng, HĐND đã tiến hành khóa họp đầu tiên tại nhà Thánh xã (địa điểm Trụ sở xã hiện nay). Tham dự hội nghị có đồng chí Nguyễn Mật thay mặt UBND huyện chỉ đạo hội nghị.

Hội nghị đã quyết định đặt tên xã mới là Bình Dương[12]. Tiếp đến HĐND bầu Ủy ban hành chính xã, gồm:

- Ông Nguyễn Tấn: Chủ tịch UBHC kiêm Ủy ban phòng thủ xã;

- Ông Lê Kiểm: Phó Chủ tịch;

- Ông Lê Luyện: Ủy viên quân sự;

- Ông Nguyễn Tứ: Ủy viên, phụ trách thủ quỹ;

- Ông Nguyễn Nại: Ủy viên, phụ trách kinh tế;

- Ông Nguyễn Thưởng: Ủy viên, phụ trách văn hóa, bình dân học vụ.

Trụ sở làm việc của UBHC xã đặt tại nhà Thánh (làng Bảo Thịnh), còn về ngân sách xã thì mỗi làng trích quỹ công tính theo số cử tri để đóng.

Ngay sau khi được thành lập, UBHC xã tiếp tục công tác xây dựng và củng cố hệ thống chính quyền địa phương. Xác định nhiệm vụ xây dựng các tổ chức đoàn thể quần chúng là nhiệm vụ trọng tâm nên UBHC hết sức chú trọng thực hiện. Tổ chức Việt Minh, Hội nông dân cứu quốc, Hội Phụ nữ cứu quốc, Hội phũ lão cứu quốc và lực lượng tự vệ được củng cố.

Sau Hội nghị, các nhiệm vụ cách mạng ở địa phương được phân định một cách rõ ràng, có kế hoạch, là cơ sở của việc củng cố, xây dựng chính quyền.

HĐND giao cho các xóm căn cứ theo kế hoạch của làng cũ trước đây để đẩy mạnh sản xuất, tập trung thu hoạch lúa chiêm và sản xuất vụ mùa, đôn đốc các đội sản xuất tiếp tục khai hoang, phục hóa để tận dụng hết đất đai, trồng thêm hoa màu giải quyết nạn đói giáp hạt.

Để giữ vững an ninh địa phương, Chủ tịch Ủy ban phòng thủ xã do đồng chí Nguyễn Tấn đảm nhiệm, ủy viên gồm các ông Lê Luyện, Lê Chỉ, Nguyễn Đóa và Nguyễn Mai. Công tác bố trí kế hoạch phòng thủ và kế hoạch tác chiến nhanh chóng được triển khai, các xóm tăng cường huấn luyện dân quân tự vệ đảm bảo canh phòng, giữ gìn trật tự trị an thôn xóm và ngăn chặn bọn phá hoại. Xã đã tổ chức một đại đội du kích để sẵn sàng chiến đấu và chi viện bổ sung cho lực lượng quân sự của huyện.

Phong trào bình dân học vụ tiếp tục được đẩy mạnh, tích cực vận động những người dưới 60 tuổi chưa biết chữ phải đi học. Hội nghị tổng kết 10 tháng phát động nhân dân đi học nhận thấy nhân dân đã tự giác học tập một cách tích cực, nhiều người, nhất là thanh niên đã biết đọc, biết viết, đã thoát nạn mù chữ, tiêu biểu có bà Nguyễn Thị Phiến trên 60 tuổi. HĐND cũng đã quyết định thành lập trường tiểu học để con em trong xã không phải sang trường Thịnh Xá học như thời gian trước. Sau một thời gian tiến hành xây dựng, nhân dân tích cực đóng góp tiền của, công sức đến đầu tháng 9-1946, đã hoàn thành, được tỉnh công nhận và Lễ khai giảng được tiến hành vào đúng ngày khai giảng năm học của toàn quốc (1946-1947).[13] Trường gồm có 4 lớp: lớp 1 (30 em), lớp 2 (25 em), lớp 3 (20 em), lớp 4 (10 em), về sau càng đông hơn.  Các giáo viên hồi đó chưa nhận phụ cấp gồm các thầy giáo Hà Huy Chữ (Hiệu trưởng), Hà Huy Thiềm, Nguyễn Vị.

   Trong lúc xã nhà mới được thành lập, đang lo củng cố và xây dựng chính quyền, đẩy mạnh sản xuất… thì từ đầu năm 1946, cuộc chiến từ Nam bộ lan ra miền Nam Trung bộ. Đảng, Chính phủ đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra những chủ trương sáng suốt, vận dụng những sách lược hết sức mềm dẻo để giữ vững chính quyền, tranh thủ mọi thời gian hòa hoãn để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến trường kỳ. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới. Chúng ngang nhiên phá hoại Hiệp định Sơ bộ 6-3-1946 và Tạm ước 14-9-1946, trắng trợn gửi tối hậu thư đòi tước khí giới của quân đội, tự vệ và công an ta. Khả năng hòa hoãn không còn nữa. Ngày 18-12-1946, Ban thường vụ Trung ương Đảng đã họp và quyết định phát động nhân dân toàn quốc kháng chiến chống giặc Pháp xâm lược. Ngày 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến:

   “… Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng lên! Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc; hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp, cứu nước…”.[14]

    Theo tiếng gọi thiêng liêng của Bác Hồ, cùng với nhân dân và lực lượng vũ trang khắp ba miền Bắc, Trung, Nam, cán bộ, đảng viên, nhân dân và các chiến sĩ tự vệ, du kích xã Bình Dương đã nhất tề bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bảo vệ nền độc lập cho Tổ quốc.

Trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp, Đảng bộ và nhân dân xã Sơn Bình đã động viên 239 thanh niên vào bộ đội, 42 người tham gia vào lực lượng dân công hỏa tuyến phục vụ trên các chiên trường Bình Trị Thiên - Lào - Tây Bắc. Đáp ứng lời kêu gọi của Bác Hồ “Toàn quốc kháng chiến” nhân dân xã Sơn Bình đã làm tốt công tác hậu phương quân đội, phát động nhân dân tăng gia sản xuất vừa giệt giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm và làm dậy phong trào“hũ gạo nuôi quân”, thực hiện “Tuần lễ vàng” toàn xã đã quyên góp được 70 chỉ vàng; 8.100 hũ gạo nuôi quân và một số thực phẩm ủng hộ kháng chiến kiến quốc. Cũng chính mảnh đất này đã xây dựng xưởng vũ khí đạn dược Hà Huy Tập đóng tại xóm Thượng và xóm Hạ (nay là xóm 3) để phục vụ cho chiến trường.

   1. Tiếp tục xây dựng Đảng và củng cố chính quyền dân chủ nhân dân

    Để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến, tháng 12-1946, UBKC xã ra đời thay thế cho Ủy ban phòng thủ. Chủ tịch UBKC Bình Dương do đồng chí Nguyễn Tấn - Chủ tịch UBHC kiêm nhiệm. UBKC đã tiến hành kiểm điểm lại công tác quân sự trước đó và đề ra công việc sắp tới.

    Về công tác tổ chức xây dựng làng chiến đấu: xã đã cử hai đồng chí Lê Luyện và Lê Kiểm xuống xã Đức Vịnh (Đức Thọ) để học tập kinh nghiệm, sau 2 ngày nghiên cứu, tham quan trở về đã cùng Ủy ban vạch kế hoạch phòng thủ toàn diện và huy động nhân dân xây đắp ụ chiến đấu, đào giao thông hào, rào làng chiến đấu. Xã cũng tiến hành củng cố lực lượng dân quân tự vệ và du kích địa phương, huy động hết nam nữ trong độ tuổi tổ chức thành tiểu đội, trung đội, đại đội theo giới tính. Toàn xã tổ chức một đại đội du kích mạnh, huấn luyện tập trung, trang bị đủ giáo mác, đại đao, kiếm, dao găm và được huyện cấp 2 khẩu súng trường để tập cách bắn và tháo lắp.

   Về mặt bố phòng, xã huy động lực lượng dân quân đào giao thông hào, ụ tác chiến liên xã để phối hợp chiến đấu khi có giặc đến. Huy động lực lượng đào giao thông hào, bố trí công sự tại núi Nầm theo Chỉ thị của UBHC huyện để đề phòng giặc từ Lào theo đường 8 thọc xuống đánh chiếm thành phố Vinh, đánh chiếm Nghệ Tĩnh. Sau đó xã lại huy động một đại đội dân quân đi phá hoại ở Linh Cảm, Phố Châu, Voi Bổ, chủ yếu là đào hố dọc đường 8 để ngăn cản xe cơ giới của địch không thể qua được, phá dỡ một số nhà cửa công sở, đồn bốt  trước đây theo chủ trương “tiêu thổ kháng chiến”.

    Sau khi hoàn thành công tác phòng thủ, xã tổ chức diễn tập quân sự, ra các tình huống như có giặc đến để dân quân du kích vận dụng cách đánh theo chiến thuật, tập cho nhân dân, nhất là ông bà già, trẻ em biết cách đề phòng và sơ tán. Ngoài luyện tập quân sự xã còn giao cho dân quân du kích chặt tre ở bờ bàu, sử dụng tre của nhân dân ủng hộ bắc cầu phao từ bến xóm Long Hội qua bàu Hàn sang xóm Mọ dài trên 50 m, rộng 2,5 m để cho dân quân du kích cơ động và nhân dân, học sinh qua lại sản xuất và học tập thuận tiện hơn.

   Cuối năm 1947, xã tổ chức một trung đội cảm tử quân do đồng chí Nguyễn Tư làm trung đội trưởng, đồng chí Lê Kiểm làm chính trị viên tiến hành tập luyện võ thuật, cách sử dụng các loại dao găm, đại đao, mã tấu do ông Trịnh Phu (lính Nhật cũ theo ta) về dạy.

    Đáp lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch “miền Bắc chi viện cho miền Nam”, thanh niên Bình Dương đã tình nguyện xung phong “Nam tiến” để cùng đồng bào miền Nam sát cánh chiến đấu chống Pháp xâm lược. Nhiều cán bộ cũng được điều vào phía trong công tác như đồng chí Hà Huy An vào Cam Ranh (Bình Thuận cũ, nay thuộc tỉnh Khánh Hòa), đồng chí Nguyễn Chấn vào Khu ủy Khu V, đồng chí Lê Quang vào làm quân giới Liên khu V. Các đồng chí đã hoàn thành tốt nhiệm vụ, đồng chí Hà Huy An là Tỉnh ủy viên tỉnh Bình Thuận đã hy sinh trên đường đi công tác, đồng chí Nguyễn Chấn, đồng chí Lê Quang sau hòa bình lập lại được chuyển ra công tác ở Hà Nội.

   Song song với sẵn sàng chiến đấu và phục vụ chiến đấu, xã cũng tập trung chỉ đạo đẩy mạnh sản xuất và phong trào bình dân học vụ. Thể theo nguyện vọng của nhân dân và học sinh, HĐND xã quyết định xây trường tiểu học bằng gạch ngói để có nơi cho học sinh học tập đàng hoàng hơn. Ủy ban hành chính xã thành lập một Ban kiến thiết do ông Lê Xuân Bách là một nhân sỹ làm trưởng ban. Xã đã tiến hành vận động nhân dân tùy theo khả năng đóng góp tiền của, các làng, các họ trích quỹ đóng góp thêm. Nhờ vậy, chỉ trong 6 tháng đã hoàn thành ngôi trường mới với 4 phòng học bằng gạch ngói khang trang, kịp khai giảng năm học mới 1947-1948.

   Đầu tháng 3-1947, chi bộ tiến hành học tập Thư của Hồ Chủ tịch gửi cho các đồng chí Trung bộ, đồng thời học tập đường lối kháng chiến của Đảng. Trong quá trình học tập, Chi ủy và đảng viên đã tiến hành tự phê bình và phê bình, mạnh dạn đấu tranh chống tư tưởng hẹp hòi, rụt rè, tự ty, không giám đấu tranh với những người có trình độ văn hóa hơn mình và bọn cường hào. Qua học tập lần này, nhận thức của cán bộ, đảng viên được nâng lên một bước và ai nấy đều có quyết tâm cao, tin tưởng vào khả năng của mình nên đã thúc đẩy được phong trào đi lên mạnh mẽ hơn.

  Dưới sự lãnh đạo của chi ủy, các đoàn thể cứu quốc đã đẩy mạnh công tác củng cố phát triển tổ chức và hoạt động kháng chiến, xã nhà lại tổ chức thêm “Hội mẹ chiến sỹ”. Theo chủ trương của cấp trên, các đoàn thể mở đại hội bầu đại biểu đi dự đại hội các đoàn thể cứu quốc cấp huyện.

        Đầu quý III năm 1947, Huyện ủy tiến hành Đại hội huyện Đảng bộ lần thứ 3 tại Đông Mỹ (Sơn Châu). Chi bộ Bình Dương đã cử đoàn đại biểu do đồng chí Nguyễn Nhận - Bí thư chi bộ dẫn đầu dự Đại hội. Đại hội đã kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ hai, đặc biệt là công tác xây dựng tổ chức Đảng đạt nhiều kết quả, lực lượng vũ trang khá lớn mạnh, chính quyền được củng cố, công việc chuẩn bị kháng chiến đang được tích cực thực hiện. Đại hội quyết định phát huy thắng lợi đợt học tập thư Hồ Chủ tịch, đẩy mạnh việc phát triển, củng cố tổ chức Đảng, chấn chỉnh chính quyền các xã còn non yếu, gấp rút tăng cường công tác bố phòng, bảo vệ trị an, sẵn sàng chiến đấu, xây dựng tiềm lực cho kháng chiến, xây dựng Hương Sơn thành một vùng an toàn vững chắc của chiến khu Đức - Hương - Hương.[15]

          Đại hội đã bầu Ban Chấp hành mới có 9 ủy viên. Đồng chí Trần Đoàn được bầu làm Bí thư, đồng chí Hồ Văn Ninh được bầu làm Phó bí thư phụ trách chính quyền. Đồng chí Nguyễn Nhận trúng cử Ủy viên BCH Huyện ủy.

          Sau Đại hội huyện Đảng bộ, tháng 9-1947, Chi bộ Bình Dương tiến hành Đại hội Chi bộ lần thứ II tại nhà thờ họ Lê ở xóm 3. Tham dự Đại hội có 45 đảng viên. Đồng chí Nguyễn Nhận vừa là Bí thư Chi bộ vừa thay mặt Huyện ủy chỉ đạo Đại hội.

          Đại hội đã tiến hành kiểm điểm, đánh giá mặt mạnh, mặt yếu qua một năm xây dựng xã mới trên các mặt công tác. Đại hội rất phấn khởi thấy rằng: Trong một thời gian ngắn, tình hình có nhiều khó khăn phức tạp, Đảng trong điều kiện phải rút vào hoạt động bí mật nhưng Chi bộ đã lãnh đạo nhân dân thực hiện các chủ trương, đường lối của trên đạt kết quả tốt và Bình Dương đã được Ủy ban kháng chiến hành chính huyện công nhận là một xã có nhiều thành tích. Đại hội cũng chỉ ra rằng: Tuy đã đạt được một số thành tích khả quan nhưng về mặt chất lượng chưa cao, tư tưởng bảo thủ, tự ty còn nặng nề, Chi bộ còn phải đấu tranh khắc phục.

         Đại hội nhận thấy công tác sắp tới còn rất nặng nề và khó khăn. Ở miền Nam, thực dân Pháp ngày càng lấn chiếm, ngoài Bắc bọn phản động tay sai đang tìm mọi cách chống đối, tuyên truyền xuyên tạc để mê hoặc nhân dân đi theo chúng. Do đó, Đại hội xác định nhiệm vụ của Chi bộ, của từng đảng viên phải có quyết tâm cao, sẵn sàng nhận mọi nhiệm vụ Đảng giao và chịu đựng mọi khó khăn, gian khổ. Đại hội đã nhất trí đè ra một số công tác sau:

         - Quyết tâm xây dựng làng chiến đấu, toàn dân sẵn sàng chiến đấu và phục vụ chiến đấu cũng như chi viện cho miền Nam khi cần thiết theo yêu cầu của cấp trên;

         - Mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân trong xã, thu hút tất cả mọi người, mọi tầng lớp tập trung vào công tác chiến đấu và phục vụ chiến đấu trên cơ sở Mặt trận Liên hiệp quốc dân Việt Nam (gọi tắt là Mặt trận Liên Việt);

         - Về sản xuất: chỉ đạo nhân dân sản xuất vụ Đông - Xuân 1947, đẩy mạnh khai hoang, mở rộng diện tích nhằm phá xiềng 3 sào, trước mắt là để cải thiện đời sống và chống đói, về lâu dài là làm đất ở cho nhân dân;

         - Về văn hóa, giáo dục: xúc tiến mạnh hơn nữa công tác bình dân học vụ, tổ chức các phong trào văn nghệ, vui chơi, chuẩn bị cơ sở vật chất để xây dựng trường cấp II của huyện tại làng Mân Xá (sau này gọi là trường Hồ Tùng Mậu);

         - Về công tác Đảng: xây dựng chi bộ vững mạnh, học tập điều lệ Đảng, cử đảng viên đi học các lớp chính trị do huyện và tỉnh mở, bồi dưỡng đối tượng để kết nạp đảng viên mới.

         Đại hội đã bầu Ban Chấp hành mới gồm 7 đồng chí, trong đó đồng chí Lê Kiểm được bầu giữ chức vụ Bí thư chi bộ; đồng chí Nguyễn Xuân Thiều giữ chức vụ Phó Bí thư. Đồng chí Nguyễn Nhận được điều lên công tác ở huyện, đồng chí nguyễn Tấn được điều động làm công tác chính trị ở Tiểu đoàn 400 thuộc Trung đoàn 103 Hà Tĩnh.

         Sau Đại hội, chi bộ đã lãnh đạo HĐND xã tổ chức Hội nghị kiểm điểm, đánh giá tình hình công tác qua một năm thực hiện và đề ra công tác cho đến hết năm 1948.

         Hội nghị đã tiến hành bầu bổ sung thêm một số ủy viên mới gồm: ông Phan Quý Du (Bang Du) giữ chức Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến hành chính xã thay ông Nguyễn Tấn; ông Phạm Quang giữ chức Phó Chủ tịch thay ông Lê Kiểm chuyển sang công tác Đảng; ông Phan Cương - Ủy viên quân sự thay ông Lê Luyện chuyển sang Ủy viên phụ trách kinh tế - tài chính - thủ quỹ.

        Tiếp đến, chi ủy tổ chức hội nghị gồm Mặt trận Việt Minh, các đoàn thể cứu quốc và chính quyền để thành lập Mặt trận Liên Việt nhằm thu hút tất cả các nhân sỹ trí thức và các phú hữu trong xã như cụ Hàn Đường, Bá Hoát, Cửu Dương, Hàn Bích, Tổng Tùng, Lý Miệu, Bang Văn, Tổng Lài, Miễn Khoa, Lý Quang, Thất Hồ, Lý Đam… vào Mặt trận Liên Việt.

         Hội nghị đã thảo luận Cương lĩnh và Điều lệ của Mặt trận Liên Việt. Với tinh thần cởi mở, thoải mái, Hội nghị đã nhất trí với khẩu hiệu “Đại đoàn kết toàn dân”, không phân biệt giàu nghèo, tôn giáo, công chức, quan lại cũ mà ai ai cũng ra sức cứu nước, cứu nòi như lời Bác Hồ đã kêu gọi. Hội nghị đã bầu ông Phan Quý Du làm Chủ tịch Mặt trận Liên Việt xã, ông Hà Huy Bành làm Phó Chủ tịch. Như vậy, trong xã có hai tổ chức mặt trận Việt Minh và Liên Việt hoạt động song song.

          Sau hội nghị, xã đã tiến hành củng cố lại BCH các đoàn thể cứu quốc, các tổ chức quần chúng như Hội Mẹ chiến sỹ, Hội Phụ nữ cứu quốc của xã hăng hái động viên con em tòng quân, ủng hộ bộ đội, dân quân. Các mẹ, các chị thực sự làm nòng cốt trong việc tổ chức các phong trào như “Mùa đông chiến sỹ”, "hũ gạo nuôi quân", ''áo ấm bộ đội"…

          Vào trung tuần tháng 10, chi bộ, Mặt trận, các đoàn thể đã vận động nhân dân mua công phiếu kháng chiến bằng nhiều hình thức như treo cờ, căng khẩu hiệu, rước đuốc từ làng này qua làng khác để cổ động. Chỉ trong một tuần lễ, nhân dân và các gia đình phú hữu, các tộc họ, các đoàn thể đã hưởng ứng nhiệt liệt và xã đã hoàn thành nhiệm vụ của cấp trên giao, trong đó làng Bảo Thịnh hoàn thành sớm nhất, đã tổ chức mít tinh, rước số tiền mua công phiếu lên Trụ sở Ủy ban kháng chiến hành chính giao nạp.

         Cuối tháng 10-1947, chi ủy và Ủy ban kháng chiến hành chính tổ chức Hội nghị các tổ trưởng tổ Đảng, xóm trưởng, tổ trưởng khai hoang để bàn kế hoạch thành lập HTX khai hoang ở Khe Trưng (Sơn Kim) mà xã đã điều tra nghiên cứu trước, có một số tổ khai hoang đã lên đây sản xuất có tính chất di cư, nay tổ chức tập trung cả xã vào một khu vực để khai phá thành đất, thành ruộng để sản xuất, tạo cơ sở sau này cho nhân dân lên đây định cư lâu dài. Hội nghị đã cử ông Lê Xuân Bích - nguyên là thư ký Sở canh nông Nghệ An trước đây làm trưởng ban và thành lập một đội chuyên môn gồm 20 người do ông Nguyễn Phùng - chi ủy viên làm tổ trưởng Đảng và trưởng trại, đồng chí Nguyễn Tiềm làm thư ký.

        Phương hướng hoạt động của HTX là do trưởng ban và đội chuyên môn lập kế hoạch khai phá, định lịch sản xuất theo thời vụ. Các xóm tổ chức các đội lên sản xuất theo kế hoạch và thời gian của trại. Nói chung, mọi người ở đội chuyên môn cũng như người ở các đội lên sản xuất theo thời vụ đều tự túc về ăn mặc, công cụ sản xuất còn HTX chỉ mua sắm cho một số cày bừa và 2 con trâu. Sản phẩm của trại làm ra, trừ các loại chi phí và trích quỹ dự trữ để tái sản xuất còn lại chia đều cho lao động. HTX làm ăn ngày càng đi lên, trong năm 1948 đã khai phá được trên 20 mẫu đất đồi, đất bãi thành ruộng nương trồng lúa, đậu, lạc, ngô, khoai sắn, mía. Nhờ được mùa nên năm đầu cho thu hoạch khá, ngoài ăn chia cho lao động, HTX còn trích một phần để mua thêm trâu, bò, công cụ sản xuất. Ngoài ra HTX còn tiến hành khai thác lâm sản, mua sắm thêm thuyền cho các gia đình chở gỗ, nứa về bán tại chợ Bè, chợ Thượng… Dần dần về sau, lực lượng lao động của HTX ngày càng thiếu vì hầu hết thanh niên tòng quân, còn lại số nam nữ sức khỏe tốt lại được điều đi dân công tiếp lương, tải đạn phục vụ các chiến trường nên năm 1950, HTX Khe Trưng phải giải thể.

   2. Tổ chức phong trào Thi đua ái quốc, tích cực củng cố hậu phương vững mạnh, chung sức chiến đấu với Bình - Trị - Thiên (5-1948 - 1950)

 Từ cuối năm 1947, bị thất bại trong chiến dịch tấn công Việt Bắc, thực dân Pháp phải từ bỏ “chiến lược đánh nhanh thắng nhanh sang đánh lâu dài”, “lấy người Việt đánh người Việt”. Chúng thực hiện kế hoạch bình định vùng tạm chiếm và phá hoại vùng tự do của ta. Giặc Pháp ra sức càn quét Bình - Trị - Thiên trong khói lửa. Thanh - Nghệ - Tĩnh đã trở thành một vùng tự do rộng lớn hậu phương cho chiến trường.

 Thực hiện chủ trương của Trung ương và điện của Hồ Chủ tịch cho Thanh - Nghệ - Tĩnh: phải gấp rút xây dựng lực lượng mọi mặt, củng cố hậu phương vững mạnh để “chung sức chiến đấu với Bình - Trị - Thiên” và chi viện cho các chiến trường khác, Ủy ban kháng chiến hành chính xã và xã đội đã sắp xếp lại các đội dân quân du kích, tổ chức luyện tập quân sự tập trung trong thời gian một tháng theo tinh thần “luyện quân, lập công, sẵn sàng chiến đấu và phục vụ chiến đấu”, tổ chức các đội dân công chuẩn bị sẵn sàng đi làm nhiệm vụ phục vụ chiến trường.

Các đoàn thể cứu quốc, Hội mẹ chiến sỹ vận động các nhà phú hữu, thu gạo ở hũ tiết kiệm nuôi quân của từng gia đình để giúp cho dân quân du kích ăn tập mà mua quà gửi ra chiến trường cho bộ đội. Nhờ vậy, trong đợt luyện quân lập công đạt chất lượng cao được Ủy ban kháng chiến hành chính huyện khen thưởng và được chọn đi thi luyện quân toàn tỉnh tại xã Đồng Công (Đức Thọ).

Để tăng cường tiềm lực cho kháng chiến, Trung ương Đảng và Hồ Chủ tịch quyết định phong trào thi đua ái quốc, lời kêu gọi của Bác ngày 11-6-1948 nêu rõ “Thi đua là yêu nước, yêu nước thì phải thi đua”, Người kêu gọi “Người người thi đua, ngành ngành thi đua, ngày ngày thi đua, người thi đua là người yêu nước nhất”.

 Thực hiện chủ trương của Trung ương, của tỉnh và của huyện Hương Sơn, trong Đảng cũng như toàn dân xã nhà đã đẩy mạnh thi đua làm nhanh, làm tốt đạt chất lượng cao:

- Vận động nhân dân hưởng ứng mua “công trái quốc gia” để xây dựng nền tài chính nước nhà. Nhờ sự lãnh đạo của chi bộ, Ủy ban kháng chiến hành chính, sự nỗ lực của các đoàn thể cứu quốc, nhân dân thấy rõ trách nhiệm của mình trong phong trào thi đua yêu nước nên đã nhiệt liệt hưởng ứng, các họ có nhiều tộc, điền hương hỏa đã trích một phần hoa lợi để mua công trái, ông Phan Quý Du, Phạm Quang (Phó chủ tịch) đã bỏ ra mỗi người 500 đồng xung phong mua trước, các họ Bổn, Lê, Hà, Phan mỗi họ mua 500 đồng, còn các họ khác mua từ 200 - 300 đồng, các hộ gia đình mua 100 - 200 đồng, các hộ nghèo cũng mua từ 20 - 50 đồng. Nhờ vậy, chỉ trong 2 ngày xã đã vận động được 17 vạn đồng mua công trái, dẫn đầu toàn tỉnh về thời gian và số lượng, được Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh và Liên khu ủy tặng bằng khen cùng phần thưởng 1 chiếc xe đạp.

- Thi đua sản xuất phục vụ tiền tuyến, phục vụ đời sống, xây dựng quê hương, chi bộ cùng chính quyền đã chỉ đạo nhân dân tăng cường sản xuất hoa màu, phát động trồng bông, trồng dâu nuôi tằm, ươm tơ dệt lụa, dệt vải tự túc ăn mặc, trồng mía ép mật, làm đường phèn, trồng vừng lạc để ép dầu thắp sáng thay dầu hỏa trong lúc khan hiếm.

Cuối năm 1948, để đảm bảo an toàn sản xuất vũ khí phục vụ chiến đấu, xưởng quân giới Hà Huy Tập từ Quảng Bình sơ tán ra đóng tại làng Yên Đồng và Đào Đạt (Bình Dương), xưởng do ông Tăng Văn Phúc làm giám đốc. Xưởng đã được nhân dân trong xã đón tiếp, giúp đỡ tận tình, vận chuyển máy móc, thiết bị, xây dựng nhà xưởng, bố trí nơi ăn, chỗ ở cho cán bộ, công nhân, nhiều công nhân có cả vợ con cùng đi theo. Chỉ trong hai tuần lễ bố trí sắp xếp, xưởng đã ổn định đi vào sản xuất. Xưởng ngày càng được mở rộng, các phân xưởng phải bố trí sang xã Đông Mỹ (nay là xã Sơn Châu). Để tiện qua lại phục vụ sản xuất giữa các phân xưởng, xã đã vận động nhân dân ủng hộ vật liệu tre, nứa bắc cầu phao qua bàu Hàn sang làng Đào Đạt dài hơn 50 m.

 Đội tự vệ của xưởng cùng lực lượng dân quân du kích, công an xã phối hợp tổ chức canh phòng ngày đêm, giữ bí mật để xưởng an toàn sản xuất. Thanh niên trong xã cùng thanh niên của xưởng đã phối hợp tiến hành các hoạt động văn nghệ, ca hát, diễn kịch, chơi bóng đá, bóng chuyền làm cho sự gắn bó giữa giai cấp công nhân với nông dân ngày càng mật thiết.

Xưởng quân giới Hà Huy Tập hoạt động trên địa bàn từ cuối năm 1948 đến năm 1953 thì bị lộ, địch cho máy bay ném bom bắn phá ác liệt nên xưởng phải chuyển vào xã Kim Hoa (nay là xã Sơn Thủy) tiếp tục hoạt động.

- Về công tác văn hóa - xã hội: xã đã phát động đợt thi đau nước rút phong trào bình dân học vụ nhằm hoàn thành thanh toán nạn mù chữ trong toàn xã. Kết quả, cuối năm 1948, huyện và tỉnh về kiểm tra đã công nhận xã Bình Dương là xã thanh toán nạn mù chữ đầu tiên của huyện và của tỉnh. Trong Hội nghị tổng kết phong trào Bình dân học vụ của Liên khu IV, đồng chí Nguyễn Thưởng - trưởng ban Bình dân học vụ xã được lên báo cáo thành tích và kinh nghiệm trước hội nghị, được Ủy ban kháng chiến hành chính Liên khu tặng Bằng khen, bà Nguyễn Thị Phiến 65 tuổi là một học viên chăm chỉ, học giỏi được thưởng một chiếc áo lụa của Hồ Chủ tịch. Đó là một vinh dự lớn cho bà và cho xã Bình Dương.

     Song song với phong trào Bình dân học vụ, các lớp trường tiểu học cũng đạt thành tích cao, hơn 90% học sinh đủ tiêu chuẩn lên học cấp 2.

     Cũng trong năm 1948, Ủy ban kháng chiến hành chính xã đã mời ông Nguyễn Thúc Hồ (Thất Hồ) là thầy thuốc Tây y và ông Nguyễn Đạm, Phan Xuân Linh, Phạm Đồng, Nguyễn Đôi (Kiểm Tịnh) là thầy thuốc Đông y về để thành lập ban y tế, tiến hành khám bệnh và bốc thuốc cho nhân dân. Đây là việc làm rất có ý nghĩa, được nhân dân đồng tình, phấn khởi, không còn phải chạy thầy chạy thuốc ở nơi xa.

    Từ giữa năm 1948 đến đầu năm 1949, xã đã chỉ đạo phong trào hợp tự, các chùa miếu ở các làng cũ chuyển vào hợp tự tại chùa Yên Mã ở làng Bảo Thịnh, các đền tập trung tại đền làng Mân Xá, nhà Thánh làng Yên Đồng hợp vào nhà Thánh xã (xóm 6). Các nhà thờ của các chi họ tập trung về một nơi tại nhà thờ họ đại tôn[16]. Việc làm này có tác dụng bỏ bớt ma chay, cúng tế tốn kém của nhân dân, nhất là dân nghèo, đồng thời cũng làm cho nhân dân giảm bớt mê tín dị đoan. Tuy nhiên, quá trình tiến hành hợp tự cũng có những thiếu sót nhất định, như việc phá hủy một số đền thờ các vị có công với quê hương, đất nước như đền Cửa Ông, đền Yên Đồng hay không giữ lại được một số đền có kiến trúc nghệ thuật cao của thời xưa.

          - Về công tác Đảng: thực hiện Nghị quyết của Đại hội lần thứ II, chi bộ đã cử Bí thư, cấp ủy, tổ trưởng tổ Đảng đi tham gia các lớp bồi dưỡng do Huyện ủy, Tỉnh ủy tổ chức. Chi bộ còn tổ chức cho đảng viên nghiên cứu, quán triệt Điều lệ Đảng để xác định vị trí, nhiệm vụ của người đảng viên trong các mặt công tác và sẵn sàng nhận bất cứ nhiệm vụ gì mà Đảng giao. Nhờ vậy, trình độ đảng viên được nâng lên một bước, tận tụy với công tác, tiên phong trong các phong trào thi đua. Chi bộ cũng đã chú trọng công tác bồi dưỡng đối tượng để kết nạp đảng viên mới, đảng viên tháng 8 nên chỉ trong một năm số đảng viên đã tăng gấp đôi. Tuy vậy, trong công tác phát triển Đảng còn có thiếu sót do nặng về số lượng, chưa quan tâm đến chất lượng, kết nạp cả những người chưa nhận thức đầy đủ về Đảng, có người trình độ văn hóa quá thấp, có người tuổi đã cao nên phần nào hạn chế đến tính chất và uy tín của Đảng.

Năm 1949, chi bộ xã Bình Dương tiến hành Đại hội lần thứ III để quán triệt Nghị quyết Đại hội Huyện Đảng bộ. Đại hội đã tiến hành đánh giá tình hình thực hiện nhiệm vụ trong nhiệm kỳ qua và đề ra phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ mới.

Đại hội đã bầu vào BCH nhiệm kỳ mới gồm 7 đồng chí, đồng chí Nguyễn Xuân Thiều được bầu làm Bí thư chi bộ, đồng chí Nguyễn Đóa làm Phó bí thư.

Đại hội có tác dụng củng cố và nâng cao thêm một bước tổ chức, năng lực lãnh đạo của chi bộ. Sau Đại hội, phong trào thi đua ái quốc được thúc đẩy mạnh mẽ.

Ngày 20-8-1949, Hồ Chủ tịch ra “Lời kêu gọi đồng bào bán gạo khao quân nhận dịp kỷ niệm ngày Quốc khánh 2-9-1949”, nhân dân Bình Dương hưởng ứng rất nhiệt tình, các gia đình khá giả bán mỗi gia đình 10 kg, nhiều gia đình bán vượt chỉ tiêu, các gia đình nghèo cũng cố gắng tìm mọi cách để có gạo bán góp phần mình vào việc khao quân.

Về bồi dưỡng sức dân, từ đầu năm 1949, xã đã phát động phong trào đẩy mạnh sản xuất vụ xuân và vụ thu, trồng các loại cây hoa màu. Mặc dù năm 1949 xã nhà gặp phải lụt lớn nhưng nhờ đã thu hoạch được vụ thu trước lụt chỉ mất một số lúa trỉa vại. Đời sống nhân dân vẫn ổn định. Ngoài ra, xã còn vận động các gia đình phát canh thu tô, thực hiện giảm tô 25% theo chủ trương của Chính phủ. Kết quả, đến tháng 9-1949, xã đã hoàn thành 100% gia đình thu tô đã giảm cho nông dân. Bình Dương là xã đầu tiên hoàn thành nhiệm vụ được Ủy ban kháng chiến hành chính huyện biểu dương.

Cuộc kháng chiến của nhân dân ta ngày càng thu được nhiều thắng lợi. Trong tỉnh, phong trào thi đua đạt rất nhiều thành tích to lớn. Đặc biệt, Hà Tĩnh được Hồ Chủ tịch khen ngợi về công tác dân quân và được thưởng Huân chương Độc lập hạng Nhì về thành tích thanh toán nạn mù chữ sớm nhất cả nước vào đầu năm 1949. Trong tình hình phấn khởi đó, Đại hội Đảng bộ Hương Sơn lần thứ 5 họp tại Phố Châu vào đầu năm 1950. Chi bộ Bình Dương có 5 đại biểu tham dự. Đồng chí Trần Quế và đồng chí Trần Chỉ thay mặt Tỉnh ủy về chỉ đạo Đại hội.

 Đại hội vui mừng nhận thấy Đảng bộ đã lớn mạnh vượt bậc. Số đảng viên tăng lên gấp 10 lần năm 1947, có nhiều chi bộ “tự động công tác”. Chi bộ xã Bình Dương được công nhận là chi bộ kiểu mẫu, được Liên khu ủy thưởng 1 chiếc xe đạp. Phong trào thi đua ái quốc thu được nhiều thắng lợi trên mọi mặt. Xã Bình Dương được Ủy ban kháng chiến hành chính Liên khu tặng cờ thi đua xuất sắc…[17]. Được Huyện ủy trao Bằng khen và bức ảnh lãnh tụ Lênin.

Đại hội bầu BCH mới, đồng chí Nguyễn Mật được bầu làm Bí thư, đồng chí Đinh Xuân Bính làm Phó bí thư phụ trách chính quyền.

Bước sang năm 1950, cuộc kháng chiến chuyển biến ngày càng có lợi cho ta. Trung ương Đảng đề ra nhiệm vụ: “Gấp rút hoàn thành nhiệm vụ, tích cực cầm cự, chuẩn bị chuyển mạnh sang tổng phản công”. Để thực hiện nhiệm vụ ấy, vào tháng 4-1950, HĐND tỉnh ra nghị quyết: “Hà Tĩnh không được thiếu người, thiếu của, không được thiếu một thứ gì cung cấp cho tiền tuyến”. Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh phát động chiến dịch Lê Hồng Phong từ tháng 5 đến tháng 10-1950 với nội dung: thi đua tòng quân, ủng hộ tân bình, đỡ đầu bộ đội, ủng hộ quân giới, tăng gia sản xuất, đóng công lương, bán lúa định giá, đẩy mạnh bố phòng, sửa đường quốc lộ.

Với khẩu hiệu “tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng”, nhân dân nô nức ủng hộ tân binh, đỡ đầu bộ đội, tiếp nhận thương binh làm con nuôi, đóng công lương, bán lúa định giá, thu gom sắt thép ủng hộ quân giới… Chỉ trong vòng một tuần lễ trong đợt 2 chiến dịch Lê Hồng Phong, xã Bình Dương bán 270 tạ lúa định giá, dẫn đầu phong trào toàn huyện. Thiếu nhi rất hăng hái thu gom sắt thép để ủng hộ xưởng quân giới Hà Huy Tập, có những gia đình ủng hộ cả chiếc nồi đồng còn nguyên vẹn.

Dân công vui vẻ, phấn khởi san ụ, lấp hố, sửa đường quốc lộ 8. Thanh niên hăng hái xung phong tòng quân, nhất là thanh niên học sinh háo hức “xếp bút nghiên theo việc đao cung”, sợ bỏ lỡ cơ hội trai thời chiến. Trong đợt này 48 thanh niên xã nhà tình nguyện xung phong vào quân đội ra mặt trận chiến đấu, nhiều thanh niên chưa đủ tuổi, thấp thước, thiếu cân cũng làm đơn xin được nhập ngũ. Tiếp đó, huyện điều hai trung đội dân công đi phục vụ tiền tuyến.

Sau đợt này, xã đội tiến hành tổ chức, sắp xếp lại lực lượng dân quân du kích, bổ sung thêm cán bộ và tiến hành tập luyện quân sự để sẵn sàng chi viện và phục vụ chiến đấu.

Chi bộ tập trung lãnh đạo nhân dân thực hiện hai nhiệm vụ: thi đua đẩy mạnh sản xuất tạo điều kiện cải thiện đời sống, có tài lực phục vụ chiến trường; tiếp tục phát huy thắng lợi giảm tô năm 1949, lần này vận động chủ nợ xóa nợ cho người vay, nhất là những người nghèo, cho chuộc lại số ruộng cầm cố trước đây chưa đến hạn hoặc quá hạn chưa chuộc được, đồng thời xã tạm chia số ruộng của một số người bỏ quê hương theo địch vào vùng tạm chiếm cho các hộ nông dân thiếu ruộng. Nhờ vậy mà nhân dân rất phấn khởi, hăng hái sản xuất, sẵn sàng nhận mọi nhiệm vụ khi trên yêu cầu.

Thực hiện chủ trương của Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh Hà Tĩnh và huyện Hương Sơn về việc hợp nhất 2 xã Bình Dương và Đông Mỹ thành một xã mới, từ đầu năm 1950, Ủy ban kháng chiến hành chính huyện đã triệu tập Hội nghị hai Ủy ban kháng chiến hành chính xã và đại diện các đoàn thể để thành lập Ban vận động hợp xã. Hội nghị nhất trí cử đồng chí Nguyễn Đóa - Phó bí thư Chi bộ Bình Dương làm trưởng ban. Ban vận động đã tiến hành họp Chi bộ, Ủy ban kháng chiến hành chính vá các đoàn thể của hai xã để thống nhất phương pháp tiến hành, sau đó cử cán bộ về từng xóm họp, phổ biến, quán triệt về việc hợp xã để nhân dân biết.

     Ngày 15-3-1950, tại cuộc mít tinh của 2 xã Đông Mỹ và Bình Dương, ông Đinh Xuân Bính - Chủ tịch Ủy ban hành chính huyện đọc quyết định sáp nhập xã Đông Mỹ và Bình Dương lấy tên là xã Bình Mỹ[18]. Thời điểm này toàn xã Bình Mỹ có 19 xóm, từ xóm 1 đến xóm 19, gồm: xóm 1 (Yên Thịnh cũ); xóm 2, 3 ,4 (Tứ Mỹ); xóm 5, 6 (Đông Trung); xóm 7 (Đông Tràng); xóm 8 (xóm Cầu); xóm 9 (xóm đò Sơn Thịnh); xóm 10 (làng Mân Xá); xóm 11, 12 (làng Đào Đạt); xóm 13 (làng Vân Sơn); xóm 14, 15, 16, 17 (làng Yên Đồng); xóm 18, 19 (làng Bảo Thịnh), ở mỗi xóm có 1 xóm trưởng, 1 công an viên phụ trách an ninh bí mật. Sau khi sáp nhập, Bình Mỹ là một xã lớn, diện tích rộng, dân số đông (trên 8000 người) trong đó hơn 600 người dân theo đạo Thiên Chúa; có 1 nhà thờ lớn và 1 cha xứ phụ trách việc giảng đạo cho con chiên. Bên cạnh thuận lợi cơ bản, việc thành lập xã mới cũng có một số khó khăn mới phát sinh đó là: địa dư xã quá rộng, đi lại khá vất vả, trình độ giác ngộ cách mạng của nhân dân không đồng đều, năng lực lãnh đạo của cán bộ, đảng viên nói chung có mặt hạn chế, chưa đáp ứng kịp với phong trào cách mạng. Để phát huy thuận lợi, khắc phục những khó khăn, đòi hỏi chi bộ phải có những chủ trương, chính sách đúng đắn để đưa phong trào của xã phát triển đúng hướng.

   Tháng 6-1950, hai chi bộ đảng xã Bình Dương và Đông Mỹ hợp nhất lại, tiến hành tổ chức Đại hội toàn đảng viên tại đình Tứ Mỹ với mục đích chấn chỉnh tổ chức và bàn nhiệm vụ của xã mới (Bình Mỹ). Đại hội đã nhất trí bầu BCH gồm 15 ủy viên, đồng chí Nguyễn Đóa làm Bí thư chi bộ, đồng chí Nguyễn Tứ làm Phó bí thư phụ trách chính quyền, đồng chí Văn Đình Diện - Thường vụ, chi ủy trực Đảng và tổ chức.

   Để ổn định tổ chức chính quyền và các đoàn thể, Mặt trận của xã mới, Hội đồng nhân dân 2 xã đã tổ chức họp và nhất trí bầu ra Ủy ban kháng chiến hành chính xã Bình Mỹ gồm 7 người, đồng chí Nguyễn Tú đựợc bầu làm Chủ tịch, ông Trần Đức Bá (làng Đông Trung) làm Phó Chủ tịch. Các tổ chức như: xã đội, công an, văn hoá, thông tin, y tế, bình dân học vụ... cũng được tổ chức sắp xếp lại theo chức năng, nhiệm vụ. Tổ chức Mặt trận Liên Việt và các đoàn thể quần chúng cũng được củng cố vững mạnh và đưa vào hoạt động có nề nếp hơn.

Từ tháng 7-1950, công tác tổ chức thành lập xã mới đã hoàn thành. Việc đầu tiên là cán bộ xã mới tiến hành nắm tình hình chung, sắp xếp lại lực lượng dân quân du kích và dân công đi phục vụ chiến dịch Biên giới, chiến dịch Bình - Trị - Thiên và động viên thu hoạch vụ mùa 1950 và chuẩn bị cho sản xuất vụ Đông Xuân 1950-1951, đẩy mạnh các mặt văn hóa, giáo dục, y tế.     

   Tháng 10-1950, một trận lụt lớn tràn qua huyện nhà, chi ủy và Ủy ban kháng chiến hành chính xã đã kịp thời phân công cán bộ về tận các xóm tổ chức việc dời dân, đưa trâu bò lên vùng đất cao, kê gác của cải, đồ vật, thóc lúa để tránh bị ngập nước. Sau 5 ngày thì nước rút, chi ủy và Ủy ban lại tiến hành vận động những gia đình không bị ngập lụt, những gia đình bị thiệt hại ít giúp đỡ những gia đình bị thiệt hại nhiều, vận động giúp đỡ các gia đình sửa chữa lại nhà cửa bị hư hỏng. Xưởng quân giới Hà Huy Tập cũng bị ngập lũ, nhiều gia đình công nhân không có gạo ăn, nhân dân giúp gạo, khoai, cùng ăn với gia đình. Dân quân, du kích cùng công nhân kê gác máy móc thiết bị, di chuyển vũ khí, đạn dược lên chỗ cao nên xưởng không bị thiệt hại về tài sản.

   Để khắc phục những thiệt hại do lũ lụt, xã nhà đã phạt động chiến dịch sản xuất để cứu đói, khẩn trương trồng khoai lang, rau, cà, bầu bí nên vài tháng sau đã có nguồn lương thực bổ sung.

   Dân quân du kích tăng cường tập luyện, nắm vững kỹ chiến thuật chiến đấu để nhập ngũ là chiến đấu được ngay, dân công sẵn sàng đi phục vụ các chiến dịch, góp sức vào thắng lợi của chiến dịch Biên giới và chiến dịch Phan Đình Phùng cuối năm 1950.

   Các mặt khác như văn hóa, giáo dục, y tế của xã đạt nhiều thành tích. Mùa hè 1950, ngành giáo dục thực hiện cải cách giáo dục, tất cả Trường Tiểu học đổi thành trường Phổ Thông cấp I, tất cả trường Trung học đổi thành Trường Phổ thông Quốc lập cấp II. Tháng 9-1951, trường cấp 2 Bình Mỹ và trường cấp 2 Mỹ Long hợp nhất thành trường cấp 2 Nguyễn Huệ. Huyện còn mở thêm trường cấp 2 Hồ Tùng Mậu. Việc học tập của con em trong xã Bình Mỹ được thuận lợi, tất cả con em đều được đến trường học tập.

   Chiến dịch Biên giới thu đông 1950 thắng lợi, con đường liên lạc giữa nước ta với phe xã hội chủ nghĩa được khai thông, đưa cuộc kháng chiến của dân tộc ta sang một giai đoạn mới.

    III. TIẾP TỤC CỦNG CỐ HẬU PHƯƠNG VỮNG MẠNH, CHI VIỆN CHIẾN TRƯỜNG, GÓP SỨC CÙNG CẢ NƯỚC ĐÁNH BẠI THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC (1951 - 1954)

Chiến thắng Biên giới đã làm thay đổi cục diện chiến trường có lợi cho ta. Để phát huy thắng lợi và đẩy mạnh cuộc kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn, từ ngày 11 đến 19-2-1951, Đại hội Đảng toàn quốc diễn ra tại Chiêm Hóa (Tuyên Quang). Đại hội quyết định đưa Đảng ra hoạt động công khai với tên gọi là Đảng lao động Việt Nam. Thực hiện Kế hoạch cua Huyện ủy Hương Sơn, các chi bộ Đảng Bình Mỹ tổ chức mít tinh mừng Đảng ra hoạt động công khai và học tập tuyên ngôn của Đảng. Toàn Đảng, toàn dân sống trong bầu không khí sôi nổi, phấn khởi chào mừng chiến thắng Biên Giới, chào mừng Đảng ra hoạt động công khai, chào mừng Đại hội tỉnh Đảng bộ vào tháng 6-1951 tại Quang Diệm (Sơn Diệm). Lúc này, đồng chí Đinh Xuân Bính đã được cử làm Bí thư Huyện ủy thay đồng chí Nguyễn Mật lên công tác ở Khu.

 Cuối tháng 6-1951, chi bộ Đảng Bình Mỹ tiến hành tổ chức Đại hội toàn đảng viên tại rú Đất, tham gia có 350 đảng viên, với mục đích nhằm chấn chỉnh tổ chức và bàn nhiệm vụ mới của xã Bình Mỹ, Đại hội nhất trí bầu đồng chí Nguyễn Đóa làm Bí thư chi bộ Bình Mỹ, đồng chí Trần Đoan phụ trách công tác giáo vận.

Đại hội đã căn cứ vào Nghị quyết đại hội Đảng bộ Hà Tĩnh năm 1951, áp dụng vào hoàn cảnh đặc điểm của địa phương, nhất trí đề ra một số nhiệm vụ cơ bản sau đây:

- Ổn định bộ máy tổ chức, gồm bộ máy chính quyền, các đoàn thể  quần chúng, mặt trận, đặc biệt chú ý các cơ sở trong vùng đồng bào công giáo ở làng Đông Trung nhằm xây dựng khối đại đoàn kết ở nông thôn thật vững mạnh.

- Tích cực phát triển và củng có lực lượng dân quân với phương châm trọng chất lượng, đảm bảo đủ nhân công tiếp tế vận tải cho tiền tuyến, làm tốt công tác phòng gian, phòng không chống địch oanh tạc.

- Đẩy mạnh tăng gia sản xuất lúa, hoa màu, trồng dâu nuôi tằm v.v… cải tiến kỹ thuật canh tác, phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm.

- Thực hiện đúng đắn chính sách ruộng đất, thi hành tốt thuế nông nghiệp.

- Chỉnh đốn công tác giáo dục phổ thông, phát triển bổ túc văn hoá, xây dựng nền giáo dục dân chủ mới.

- Phát triển y tế nhân dân, bảo vệ chăm sóc sức khoẻ mọi người, tiếp tục xây dựng đời sống mới.

- Về công tác xây dựng Đảng phải chú ý tăng cường công tác chính trị, rèn luyện tư tưởng đảng viên, khắc phục tư tưỏng chủ quan hẹp hòi, tự mãn, sửa chữa lề lối làm việc, thực hiện đoàn kết nội bộ tốt, mỗi đảng viên phải đề cao tính kỷ luật nghiêm minh.

- Tiến hành tổ chức học tập chính cương, điều lệ đảng, xây dựng chi bộ theo điều lệ mới mà đại hội đảng toàn quốc lần thứ II đã thông qua

Để ổn định tổ chức chính quyền và các đoàn thể, mặt trận, xã Bình Mỹ nhất trí bầu ra Uỷ ban kháng chiến hành chính xã gồm 7 người, đồng chí Nguyễn Đình Tứ được bầu làm Chủ tịch xã, đồng chí Trần Đức Bá (làng Đông Trung) làm Phó Chủ tịch, các ban ngành như xã đội, công an, văn hoá, thông tin, y tế, bình dân học vụ cũng được tổ chức sắp xếp lại làm việc theo chức năng nhiệm vụ của mình đạt hiệu quả cao. Tổ chức mặt trận liên Việt và các đoàn thể quần chúng cũng được củng cố vững mạnh và đưa vào hoạt động có nề nếp hơn.

 Bộ máy tổ chức của xã mới đi vào hoạt động tốt, nhân dân xã nhà phấn khởi, hưởng ứng mạnh mẽ, các chủ trương ra sức đẩy mạnh tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, khai phá ruộng đất hoang hoá tăng diện tích gieo trồng sản xuất để tự khắc phục, giải quyết đời sống khó khăn sau trận lụt to tháng 10/1950. Ngoài việc sản xuất, nhân dân Bình Mỹ còn đóng góp hàng nghìn dân công phục vụ mặt trận Bình - Trị - Thiên, mặt trận Trung Lào, huy động dân công đi sữa chữa đường sắt, làm đường ôtô Cửa Rào, đắp đê La Giang... Có những đảng viên tuy tuổi đã cao nhưng cũng xung phong đi làm nhiệm vụ như: đồng chí Nguyễn Trọng Khai, Nguyễn Trọng Thực... Đây là những điển hình gương mẫu trong các đoàn dân công, luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trên giao. Có những người đã dũng cảm hy sinh trong khi làm nhiệm vụ như: ông Phạm Khoái ở Đạo Đạt, ông Châu ở làng Mân Xá, ông Võ Tấn... Có nhiều người xung phong đi dân công lần thứ hai, điển hình như ông Nguyễn Bảy (xóm 2 làng Bảo Thịnh) đã bám sát bộ đội để phục vụ chiến đấu được tỉnh tặng Bằng khen và được bầu là “Chiến sỹ thi đua dân công” của tỉnh Hà Tĩnh.

Năm 1951 là năm đầu thực hiện thu thuế nông nghiệp bằng thóc, chi bộ đã triển khai tích cực trong nội bộ Đảng sau đó giao cho chính quyền ra kế hoạch và triển khai thực hiện nghiêm túc. Ban Thu thuế trên cơ sở phân hạng, loại ruộng đất để lập bộ thuế, công khai trước dân. Nhờ đó, kết quả thu thuế nông nghiệp bằng thóc của xã đạt kết quả cao. Chỉ trong thời gian ngắn, xã đã thu được 1.700 tạ thóc, dẫn đầu toàn huyện và được báo Nhân dân đưa tin đầu tiên, được huyện và tỉnh biểu dương. Cũng trong thời gian này, để đảm bảo công băng nghĩa vụ đối với Nhà nước, xã Bình Mỹ đã xây dựng bộ thuế thương nghiệp, đồng chí Nguyễn Tiệp được cử làm trưởng ban. Với tinh thần tự giác đóng góp, 85 hộ buôn bán và thợ thủ công ở vùng chợ Choi (Mân Xá) đã nộp 16.500 đồng tiền thuế hàng tháng.

Chi bộ và chính quyền cũng rất coi trọng công tác chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Trong cuộc vận động “Đại sản xuất nông nghiệp” do Chính phủ phát động, xã đã huy động toàn dân sửa sang lại kênh mương, nâng cấp đập khe Su, cùng với phương pháp chôn nước tại ruộng, ao, hồ. Nông dân còn tích cực hưởng ứng áp dụng các kỹ thuật mới, giống mới vào sản xuất như lúa Cao man, khoai lang, muống trắng cho năng suất cao. Ngoài ra còn áp dụng kỹ thuật chăn nuôi gia súc, gia cầm. Hội nông dân còn tổ chức các đoàn đi tham quan học hỏi kinh nghiệm các nơi khác và phát động phong trào làm phân xanh, ủ phân bùn và dùng phân tiêu.

Để cổ vũ phong trào thi đua sản xuất, Hội nông dân đã tổ chức triển lãm các sản phẩm nông nghiệp, kinh nghiệm chăn nuôi gia súc, gia cầm, kỹ thuật trồng trọt. Cuộc triển lãm đã thu hút được bà con nông dân tham gia nhiệt liệt và đưa lại hiệu quả thiết thực.

Về mặt giáo dục, xã đã phát động, tổ chức cho nhân dân tiếp tục phong trào Bình dân học vụ cho hết lớp 4, mọi người đều hăng hái đêm cắp sách đến lớp học, ngày ra đồng sản xuất.

Năm học 1951-1952, thực hiện chủ trương của phòng giáo dục huyện, xã Bình Mỹ đã mở trường trung học dân lập Lý Chính Thắng sau đổi là trường cấp II Bình Mỹ do ông Lê Mưu làm hiệu trưởng. Trường ra đời tạo điều kiện cho con em trong xã học tập nâng cao trình độ văn hóa.

Bên cạnh việc đẩy mạnh sản xuất, học tập, con em xã Bình Mỹ sẵn sàng tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu, không khí văn hóa, văn nghệ cũng rất sôi nổi, các bài ca, bài hát về ca ngợi thanh niên tình nguyện đi bộ đội, đi dân công, ca ngợi những người sản xuất giỏi. Đội văn nghệ xã phối hợp với đội văn nghệ của xưởng Hà Huy Tập biểu diễn trong các đêm đốt lửa trại, kịp thời động viên phong trào thi đua mọi mặt của xã.

Về công tác Đảng và công tác mặt trận, từ ngày Trung ương Đảng chủ trương tạm ngừng phát triển đảng viên mới (19-9-1950). Để củng cố và giáo dục đảng viên, chi bộ đã tổ chức cho đảng viên học tập về Điều lệ Đảng, về phẩm chất đạo đức của người đảng viên, học tập Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc, các nghị quyết của Tỉnh ủy, Huyện ủy, học tập tài liệu “Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi” của Tổng Bí thư Trường Chinh. Qua học tập trình độ đảng viên không ngừng được nâng lên và sẵn sàng nhận mọi nhiệm vụ mà Đảng giao phó.

Công tác mặt trận cũng được coi trọng, tháng 3-1951 thực hiện chủ trương thống nhất Mặt trận Việt Minh và Mặt trận Liên Việt thành một mặt trận lấy tên là Mặt trận Liên Việt, xã Bình Mỹ đã mở đại hội thống nhất hai mặt trận và ông Hà Huy Bành được bầu làm Chủ tịch.

Chiến tranh ngày càng diễn biến ác liệt, đầu năm 1952 địch cho máy bay trinh sát khắp huyện Hượng Sơn, trong đó có xã Bình Mỹ. Chi ủy, chính quyền, mặt trận nhận định địch có thể đánh phá vào xã nhà nên đã tổ chức cho trường học sơ tán vào làng Bảo Thịnh, xưởng Hà Huy Tập cũng sơ tán vào xóm Hội, xóm Hương và một bộ phận chuyển vào Kim Hoa (Sơn Thủy), vận động nhân dân đào hầm trú ẩn, cất giấu, sơ tán tài sản. Đúng như nhận định, ngày 31-3-1952 máy bay địch liên tục bắn phá vào Bình Mỹ, đánh phá xưởng Hà Huy Tập, ném bom làm sập cầu Cửa Khâu. Nhờ sự sơ tán nên xưởng Hà Huy Tập không bị thiệt hại về tài sản, nhưng chết 1 công nhân, ở làng Đào Đạt bom trúng vào một hầm trú ẩn làm chết 7 người, làng Yên Đồng bị cháy 2 ngôi nhà của ông Nguyễn Mạnh và ông Hà Huy Chữ. Sau đó, địch tiếp tục ném bom vào làng Mân Xá và làng Vân Sơn làm chết 1 người. Trước tình hình đó, chi ủy, chính quyền cùng mặt trận đã kịp thời ổn định tư tưởng nhân dân, vận động giúp đỡ những gia đình bị thiệt hại để ổn định cuộc sống.

Để đập tan âm mưu của kẻ địch lợi dụng tôn giáo để chống phá ta, thực hiện chủ trương của tỉnh ủy, huyện ủy, chi ủy và chính quyền tăng cường công tác vận động quần chúng để phân hóa giáo dân, kéo dân lành ra khỏi cảnh lừa bịp của bọn phản động. Xã đã thành lập Ban giáo vận do đồng chí Trần Đoan ủy viên BCH Mặt trận Liên Việt xã làm trưởng ban cùng một số ủy viên là những người có uy tín của xã. Ban đã tiến hành phát động quần chúng tố giác, vạch mặt thủ đoạn của bọn đội lốt tôn giáo, qua thuyết phục đấu tranh có một số tên ngoan cố không chịu cải tà quy chính buộc chính quyền xã phải tổ chức quần chúng trực tiếp đấu tranh vạch trần luận điệu của chúng, buộc chúng phải nhận tội trước nhân dân, chỉ còn một vài tên bỏ trốn vào vùng địch tạm chiếm.

Để có tiềm lực chi viện cho tiền tuyến và bồi dưỡng sức dân, Liên khu ủy khu IV đã phát động “Vụ Chiêm chủ lực”, “Vụ mùa thắng lợi” và đẩy mạnh các ngành nghề thủ công, lâm nghiệp một cách đồng đều.

Năm 1952, cuộc chiến đấu trên mặt trận sản xuất càng gặp nhiều khó khăn, hạn hán quá nặng, hơn cả năm 1951. Xã đã mở chiến dịch chống hạn, đẩy mạnh tăng gia sản xuất với khẩu hiệu “Vắt đất ra nước, thay trời làm mưa” nên đã đào nhiều giếng nước, làm hồ chứa nước, có nơi phải tát 4 bậc nước mới đưa được nước bàu Hàn lên mương máng chảy ra ruộng. Nhờ sự lãnh đạo của Chi bộ và chính quyền cùng sự nỗ lực quyết tâm của nhân dân nên đã khắc phục được việc chống hạn, đưa thu hoạch của năm 1952 vẫn đạt khá, các mặt chăn nuôi gia súc, gia cầm, nuôi tằm ươm tơ dệt vải, trồng mía ép mật, trồng lạc ép dầu đều phát triển.

Để tiếp tục động viên tài lực cho tiền tuyến, Chính phủ chủ trương thực hiện “Ba thu”: thu thuế nông nghiệp, công nghiệp, mua lúa định giá, tận thu của những nhà có nhiều lúa không dùng hết. Qua vận động và thực hiện, xã đã thu đạt mức 2.000 tạ thóc, trong đó có gia đình đạt hàng chục tạ như gia đình ông Tổng Khoa (làng Vân Sơn, 70 tạ), gia đình ông Hàn Phương (người công giáo làng Đông Trung, 50 tạ), gia đình ông Tổng Lài (làng Yên Đồng, 35 tạ). Đến thàng 1-1953, xã Bình Mỹ được huyện công nhận là 1 trong 7 xã hoàn thành việc thanh thuế.[19]

Cuối năm 1952 đầu năm 1953, xã tổ chức hướng dẫn nhân dân học tập điều lệ dân công và trở thành một cuộc đại vận động nhân dân đi phục vụ dân công hỏa tuyến các mặt trận Hà - Nam - Ninh, Tây Bắc, Bình - Trị - Thiên. Dân công đi làm đường mới, sửa chữa đường cũ, đi đắp đập giữ nước, đắp đê La Giang phòng chống lụt. Biết bao gian khổ hy sinh đã diễn ra trên con đường tiếp vận. Trang bị thiếu thốn, chăn chiếu phải tự túc, ai có chăn mang chăn, ai có chiếu mang chiếu. Những đêm mưa rét giữa rừng với vắt, muỗi, những ngày vượt dốc đá tai mèo cheo leo, U bò, Ba rền, những lúc bị hổ, báo rình đuổi, những trận chiến đấu vượt qua các ổ phục kích của quân thù... Nhiều chiến sỹ đã hy sinh anh dũng, thế nhưng các đợt dân công không khi nào thiếu và chưa bao giờ có người đào ngũ. Có người xung phong đi 2 đến 3 đợt liền, luôn luôn hoàn thành nhiệm vụ.

Năm 1952, 1953 cũng là năm huy động hết các lực lượng thanh niên khỏe đủ tiêu chuẩn vào bộ đội, có đợt phải tuyển lấy những người thấp thước nhẹ cân các đợt trước để lại. Bình Mỹ đã được huyện tặng giấy khen, hai đồng chí Lê Trọng Thành, Lê Trọng Thủy cán bộ chỉ huy dân công của xã được tỉnh tặng Bằng khen.

Tháng 9-1952, chi bộ xã Bình Mỹ tổ chức Đại hội lần thứ hai kể từ khi thành lập xã mới. Tham dự Đại hội có trên 400 đảng viên. Đại hội đã đánh giá công tác lãnh đạo 2 năm qua của Chi bộ. Mặc dù là một xã có diện tích quá rộng, dân quá đông, số cán bộ có trình độ lại được cấp trên điều động đi công tác, những người khỏe mạnh phần lớn đi bộ đội, đi dân công, lực lượng ở nhà phần nhiều là phụ nữ, người già và trẻ em, công tác trên giao phục vụ chiến đấu bảo vệ quê hương rất nặng nề và cấp bách nhưng chi bộ đã có sự đoàn kết, nhất trí cao, quyết tâm phát huy sức mạnh của đảng viên và nhân dân trong mọi lĩnh vực nên đã hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ, được tỉnh tặng Bằng khen, Tỉnh ủy, Huyện ủy công nhận là chi bộ vững mạnh toàn diện. Mặt khác, Đại hội cũng tự đánh giá các mặt yếu kém và tồn tại còn mắc phải trong quá trình lãnh đạo như tư tưởng một số cán bộ, đảng viên còn bảo thủ, chủ quan, ngại gian khổ, có lúc thiếu dân chủ, mệnh lệnh, chưa chú trọng bồi dưỡng sức dân. Công tác bồi dưỡng đảng viên và cán bộ chưa được quan tâm đúng mức nên nhận thức và trình độ lãnh đạo còn yếu nhất là một số đảng viên nữ tuổi cao, trình đọ văn hóa thấp.

Đại hội đã thảo luận phân tích kỹ về tình hình và nhiệm vụ kháng chiến kiến quốc trong giai đoạn mới nhất là năm 1953-1954, cuộc kháng chiến của quân dân ta đã giành được nhiều thắng lợi, buộc địch phải rơi vào thế bị động, ta chuyển sang tổng phản công. Trên cơ sở đó, đại hội đề ra một số nhiệm vụ chính sau:

- Công tác phục vụ chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu đảm bảo kịp thời phục vụ tiền tuyến, bảo vệ quê hương;

- Bồi dưỡng sức dân, vận động nhân dân thực hiện cuộc vận động đại sản xuất và thực hiện giảm tô triệt để;

- Đẩy mạnh công tác Bình dân học vụ học hết lớp 4, đồng thời tiếp tục chống tái mù chữ. Chú trọng đẩy mạnh công tác văn nghệ, tổ chức vui chơi, giải trí;

- Chú trọng công tác bồi dưỡng đảng viên và xây dựng các đoàn thể quần chúng nhằm đủ sức lãnh đạo để hoàn thành nhiệm vụ nặng nề đã đề ra.

Đại hội bầu BCH mới gồm 21 ủy viên, đồng chí Nguyễn Khắc Cận được bầu làm Bí thư chi bộ, đồng chí Phạm Hữu Bái làm Phó Bí thư phụ trách chính quyền.

    Sau Đại hội, xã tiến hành bầu đại biểu HĐND và Ủy ban kháng chiến hành chính xã khóa 2. HĐND đã họp để bàn công tác năm 1953, thống nhất các nhiệm vụ mà Đại hội chi bộ đề ra và nhất trí bầu đồng chí Phạm Hữu Bái làm Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính xã, ông Trần Đức Bá (Công giáo) giữ chức Phó Chủ tịch, ông Phan Cương làm Xã đội trưởng, ông Dương Đình Cẩn - xã đội phó kiêm chính trị viên. Các đoàn thể quần chúng và mặt trận Liên Việt cũng đựơc chấn chỉnh lại đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới của cuộc kháng chiến.

   Thực hiện Nghị quyết của Đại hội chi bộ và của HĐND xã, từ đầu năm 1953 chi ủy, chính quyền đã tiến hành xây dựng lực lượng dân quân du kích, làm tốt công tác tuyển quân, huy động dân công phục vụ tiền tuyến. Xã đã tổ chức được một đội dân quân nữ, một đại đội dân quân cả nam và nữ, mỗi làng tổ chức một đội lão dân quân, tổ chức đội trinh sát, đội cứu thương, tổ chức đội thiếu niên quân làm liên lạc, cứu thương.

   Để sẵn sàng chiến đấu, xã đã tổ chức bố phòng, đào hầm đắp ụ tác chiến, sửa giao thông hào, hầm trú ẩn, đào thêm hầm tránh bom đạn dọc đường có nhiều người qua lại, tổ chức cắm cọc tre vót nhọn dọc bãi sông Phố thuộc làng Mân Xá, Đông Trung, Đông Tràng, vùng Trèo bòi, đập Lầy để đề phòng địch nhảy dù xuống.

   Sau khi củng cố xong lực lượng, xã tiến hành tổ chức học tập chính trị, quân sự cho cán bộ chỉ huy, xóm trưởng và thực tập báo động cho các  lực lượng tự vệ, dân quân du kích. Trước yêu cầu đòi hỏi của chiến trường, được sự giáo dục, động viên của các cấp ủy Đảng, chính quyền và đoàn thể thanh niên giành nhau ra mặt trận, sợ lỡ mất cơ hội ngàn năm có một của trai thời chiến. Dân công tranh nhau ra tiền tuyến, các đợt tuyển quân và thanh niên xung phong vào cuối năm 1953 và 1954 của xã đều đạt kế hoạch. Xã Bình Mỹ đã huy động 3 đợt dân công, 45 người loại B đi làm kho thóc cho tỉnh, 2 đợt dân công phục vụ ngân hàng trong các tháng 4, 5 và 6-1953, và 1 đơn vị dân công loại C khoảng 150 người của xã Bình Mỹ thường xuyên phục vụ chuyển hàng của xưởng quân giới ra bến sông. Tháng 10-1953 một đoàn dân công hạng A, hạng B tham gia làm đường và làm cầu, mở đường Truông Mèn (đường từ Hương Sơn sang Thanh Chương, Nghệ An). Dân công hỏa tuyến liên tục ra mặt trận. Tháng 5-1953 một đoàn dân công hạng A đi mặt trận Trung Lào, 1 đoàn đi mặt trận Nam Thừa Thiên… Tháng nào cũng phải bình chọn người đi phục vụ chiến trường 3 đến 5 đợt… Dù là đi giữa những ngày mùa bận rộn, hay phải đón tết giữa rừng sâu, hoặc ngoài mặt trận, dù phải chịu đói chịu rét và phải chống chọi với những cơn sốt rét rừng ác liệt… dân công xã Bình Mỹ luôn luôn làm tròn nhiệm vụ và đi về rất hào hứng, phấn khởi.

   Để bồi dưỡng sức dân, xã tiếp tục thực hiện cuộc vận động nhân dân thực hiện cuộc “Đại sản xuất” của Liên khu IV đề ra và thi đua sản xuất theo gương anh hùng Hoàng Hanh, nhân dân đã hăng hái đẩy mạnh sản xuất, chăm sóc ruộng đồng, trồng thêm rau, khoai nên năm 1953 là năm được mùa lớn, đảm bảo ổn định đời sống nhân dân và có đủ thóc gạo đóng thuế phục vụ tiền tuyến.

  Song song với công tác đẩy mạnh sản xuất, xã tiếp tục thực hiện cuộc vận động giảm tô, giảm tức, nhất là ở vùng công giáo. Để cuộc vận động thực hiện triệt để, ngày 31-5-1953 xã đã đón đoàn cán bộ giảm tô, giảm tức của huyện phái về chỉ đạo tiến hành.

  Đoàn về đã cùng chi ủy, chính quyền và mặt trận phát động nông dân nghèo khai báo cụ thể số ruộng của gia đình mình, của những nhà giàu có và nói lên nỗi khổ cực của mình khi cày ruộng rẽ và vay nợ lãi, trực tiếp hướng dẫn nhân dân đến tận nhà chủ ruộng, chủ nợ buộc họ phải giảm 25% tô và xóa nợ dài hạn mà họ đã lấy lãi quá vốn vay. Nhờ vậy mà năm 1953 - đầu năm 1954, công tác giảm tô, giảm tức được thực hiện triệt để. Công tác giảm tô, giảm tức kết hợp với phong trào học tập văn hóa, Bình dân học vụ và hoạt động văn nghệ đã làm cho nhân dân giác ngộ về giai cấp, trình độ chính trị, động viên khí thế cho xã nhà làm tốt công tác phục vụ sức người, sức của cho tiền tuyến đánh thắng giặc xâm lược.

  Năm 1953, nhằm khắc phục những tư tưởng và nhận thức sai trái mà đại hội chi bộ đã đánh giá, chi bộ đã cử cán bộ chủ chốt đi học tập chỉnh huấn Đảng do huyện mở, sau đó về chi bộ tổ chức chỉnh huấn cho toàn thể đảng viên học tập về quan điểm đấu tranh giai cấp, quan điểm chiến tranh nhân dân, âm mưu của kẻ thù trong tình hình mới, về nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ quê hương, phục vụ tiền tuyến. Các đợt học tập đó đã mang lại hiệu quả tích cực, nâng cao lập trường tư tưởng vô sản cho cán bộ, đảng viên, góp phần ngăn ngừa những nhận thức sai trái, tư tưởng tiêu cực. Chi bộ cũng đã cùng với mặt trận Liên Việt, chính quyền bố trí sắp xếp lại đội ngũ cán bộ và các tổ chức đoàn thể quần chúng.

  Bị thất bại nặng nề trên khắp chiến trường Đông Dương, giặc Pháp lâm vào thế hoàn toàn bị động. Từ mùa hè năm 1953, thực dân Pháp phải dựa vào đế quốc Mỹ để thực hiện Kế Hoạch Nava. Để đánh bại kế hoạch quân sự Nava, đầu tháng 9-1953, Bộ Chính trị đã quyết định mở cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân (1953-1954) đưa cuộc kháng chiến bước vào những năm tháng quyết định. Dưới sự chỉ đạo của tỉnh Hà Tĩnh và huyện Hương Sơn, chi bộ Đảng xã Bình Mỹ đã lãnh đạo nhân dân đẩy mạnh sản xuất tiết kiệm, sẵn sàng chi viện cao nhất sức người, sức của cho các chiến trường, bảo vệ vững chắc địa phương.

   Việc đầu tiên xã nhà đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục đảng viên, cán bộ và nhân dân nhận rõ tình hình nhiệm vụ, nhất là nhận rõ sự suy yếu của thực dân Pháp trong bước đường cùng phải dựa vào đế quốc Mỹ, những âm mưu của chúng vô cùng thâm độc; đồng thời làm cho nhân dân quán triệt chủ trương tổng tiến công chiến lược để giành thắng lợi quyết định trên chiến trường của Trung ương Đảng và Hồ Chủ tịch và nhiệm vụ cán bộ, đảng viên và nhân dân Bình Mỹ phải tăng cường bố phòng bảo vệ vững chắc địa phương, đẩy mạnh sản xuất và chi viên cao nhất sức người, sức của cho các chiến trường.

   Để có tiềm lực cung cấp cho kháng chiến và cải thiện đời sống nhân dân, Đảng bộ đã lãnh đạo nhân đân đẩy mạnh sản xuất. Trong nông nghiệp, phong trào chống hạn, làm cỏ, bón phân phát triển mạnh, phong trào trồng khoai, sắn ngô không để đất hoang hóa, chăn nuôi trâu, bò, lợn, gà... tăng hơn các năm trước. Phong trào nuôi dê, thỏ phát triển... Hưởng ứng các phong trào thi đua, xã Bình Mỹ luôn dẫn đầu của huyện Hương Sơn.

Trong bom đạn ngày càng ác liệt, không những sản xuất vẫn được đẩy mạnh mà sự nghiệp văn hóa, giáo dục vẫn phát triển nhanh. Các trường cấp I, cấp II vẫn đảm bảo học tốt, các lớp Bình dân học vụ vẫn hăng hái học tập đều đặn. Cán bộ tuyên truyền thông tin đêm nào cũng kịp thời truyền tin chiến thắng ở các mặt trận báo về, đội văn nghệ đêm đêm về tận các xóm biểu diễn góp vui với bà con, nhất là trong tháng hữu nghị Việt - Trung - Xô (02-1954) và nhiều hoạt động văn hóa, văn nghệ khác đã thổi một luồng không khí phấn khởi rộng khắp trong toàn xã.

 Trước yêu cầu đòi hỏi của chiến trường, với khẩu hiệu: “tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”, nhân dân xã Bình Mỹ đã tiễn đưa con em mình lên đường nhập ngũ vào các đơn vị của Đại đoàn 325. Trong chiến dịch Trung Lào (tháng 11-1953), xã còn huy động hàng trăm dân công làm nhiệm vụ vận chuyển vũ khí, lương thực, đạn dược, chuyển tải thương binh về hậu cứ... Trong hơn 6 tháng liền phục vụ chiến dịch, xã Bình Mỹ cung cấp 28.300 người, 3.409 tấn gạo, 154 tấn muối, 2.102 con trâu bò (chưa kể số huy động ở nước bạn); cấp phát 50 tấn vũ khí, đạn dược.[20] Với sự chi viện tích cực, tinh thần phục vụ vô điều kiện cho các chiến dịch đã tạo thuận lợi cho liên quân Việt Lào đánh thắng thực dân Pháp, giải phóng hầu hết vùng dân cư Trung và Hạ Lào, diệt trên 4.000 tên địch, bắt sống hơn 1.000 tên, thu nhiều vũ khí quân trang, quân dụng... Chiến thắng này đã góp phần làm nên thắng lợi cuộc tiến công chiến lược Đông xuân 1953-1954 của quân và dân ta. Ngày 07-5-1954, chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi. Ngày 21-7-1954, Hiệp định Giơnevơ được ký kết, hòa bình lập lại trên miền Bắc nước ta.

  Từ ngày Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, chi bộ Đảng Cộng sản Đông Dương làng Bảo Thịnh, làng Yên Đồng ra đời, xã nhà đã trải qua biết bao biến động đổi thay, từ làng Bảo Thịnh, Yên Đồng cùng làng Mân Xá, Vân Sơn, Đào Đạt hợp thành xã Bình Dương, rồi xã Bình Dương cùng xã Đông Mỹ thành lập xã Bình Mỹ, và cũng từ những người dân nô lệ dưới chế độ thực dân phong kiến đã đứng lên làm cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương giành độc lập, tự do, dân chủ, rồi trải qua thời kỳ kháng chiến kiến quốc đã làm thay đổi cả về chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, đẩy mạnh sản xuất, xây dựng lực lượng chiến đấu phục vụ kháng chiến đến thắng lợi.

  Trải qua chặng đường gian lao, thử thách, chống thù trong giặc ngoài và chống thiên tai khắc nghiệt, chi bộ đã lớn mạnh vượt bậc cả về số lượng và chất lượng, cả về tổ chức và năng lực. Chi bộ cùng chính quyền và mặt trận đã phát huy cao độ truyền thống yêu nước nồng nàn, căm thù giặc sâu sắc, truyền thống lao động cần cù, sáng tạo, tinh thần hiếu học lâu đời của nhân dân để xây dựng xã nhà thành hậu phương an toàn, vững chắc, luôn luôn làm tròn nhiệm vụ phục vụ chiến đấu, không tiếc sức người, sức của phục vụ tiền tuyến. Ở trên mọi lĩnh vực từ tiền tuyến đến hậu phương, cán bộ, nhân dân Bình Mỹ đều hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được Nhà nước tặng thưởng nhiều huân, huy chương các loại. Chỉ tính riêng làng Bảo Thịnh, Yên Đồng đã có 141 người con anh dũng hy sinh trên các chiến trường, góp phần đem lại chiến thắng vinh quang cho Tổ quốc. Ở hậu phương, nhân dân và lực lượng dân quân du kích xã ra sức đẩy mạnh sản xuất, bảo vệ xóm làng, hàng vạn lượt người đi dân công hỏa tuyến, đã có nhiều người được tỉnh, huyện khen thưởng, điển hình như đồng chí Nguyễn Bảy (xóm 3) được tặng danh hiệu chiến sỹ thi đua dân công cấp tỉnh; trong sản xuất nông nghiệp ông Nguyễn Bảy (xóm 7) được bầu chiến sỹ thi đua nông nghiệp của tỉnh. Về văn hóa - giáo dục xã có trường cấp I, cấp II, hầu hết con em trong độ tuổi đều được tới trường, hơn 90% dân số thoát nạn mù chữ, đồng chí Nguyễn Thưởng được bầu chiến sỹ thi đua bình dân học vụ, được Liên khu IV tặng Bằng khen. Riêng chi bộ Bình Mỹ được công nhận là chi bộ vững mạnh toàn diện.

 Thành tích đã đạt được thật đáng trân trọng, tự hào, nhân dân Bình Mỹ đã thực sự được hưởng một cuộc sống tự do trong một nước độc lập, dưới chế độ dân chủ giữa những ngày giáp hạt thiên tai tuy vẫn có người bị đói tạm thời nhưng nhờ có Đảng, có chính quyền, có đoàn thể và sự đùm bọc tương trợ lẫn nhau của mọi người nên đã nhanh chóng vượt qua khó khăn. Đời sống tinh thần của các tầng lớp nhân dân so với trước cách mạng đã có sự chuyển biến nhảy vọt. Mọi người được học hành, chữa bệnh, được hưởng những quyền lợi văn hóa. Nhưng nhìn lại trong quá trình thực hiện nhiệm vụ cách mạng còn có nhiều tồn tại, khuyết điểm. Trên thực tế xã Bình Mỹ là một xã địa dư quá rộng, dân số đông, đi lại khá vất vả, trình độ giác ngộ cách mạng của nhân dân không đồng đều, năng lực lãnh đạo của cán bộ, đảng viên nói chung có mặt hạn chế, chưa đáp ứng kịp với phong trào cách mạng. Trước tình hình đó, tỉnh, huyện đã có phương pháp chỉ đạo chia xã Bình Mỹ thành 3 xã nhỏ để phù hợp với từng địa bàn dân cư, chuẩn bị các điều kiện cần thiết để bước vào một thời kỳ cách mạng mới.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Chương III

LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

VÀ KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC

(1954-1975)

 

    I. HOÀN THÀNH CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT, KHÔI PHỤC VÀ CẢI TẠO XÃ HỘI CHỦ NGHĨA (1954 - 1960)

   Sau chiến thắng Điện Biên Phủ (07-5-1054), Hiệp định Giơnevơ được ký kết (21-7-1954), hòa bình được lập lại trên miền Bắc Việt Nam. Cách mạng Việt Nam chuyển sang giai đoạn mới: tiến hành cách mạng XHCN ở miền Bắc và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà.

  Trong niềm vui chung đó, chi bộ Đảng và nhân dân Bình Mỹ vô cùng tự hào, vì đã đóng góp vào thắng lợi của dân tộc. Bước vào giai đoạn cách mạng mới, tình hình Bình Mỹ có nhiều thuận lợi. Toàn Đảng, toàn dân vui mừng, phấn khởi, tự hào trước thắng lợi to lớn của 9 năm trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, tổ chức Đảng đã lớn mạnh và trưởng thành thêm một bước. Tổ chức chính quyền vững vàng. Các đoàn thể quần chúng phát triển rộng rãi. Lòng yêu nước và trình độ giác ngộ cách mạng của nhân dân được nâng cao. Nhân dân tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng và của Bác Hồ.

Bên cạnh những thuận lợi cơ bản đó, tình hình chung của xã cũng còn nhiều khó khăn. Hậu quả chiến tranh để lại không phải là ít, cộng vào đó là thiên tai liên tiếp hàng năm đã để lại những hậu quả nghiêm trọng.

Cuối năm 1954, sau khi thực hiện chủ trương giảm tô, Tỉnh ủy, Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh Hà Tĩnh quyết định điều chỉnh bản đồ hành chính các xã và thực hiện một bước kiện toàn tổ chức. Lúc này toàn huyện Hương Sơn có 15 xã chia thành 29 xã. Để thực hiện chủ trương trên chi bộ, Ủy ban kháng chiến hành chính xã Bình Mỹ tổ chức Hội nghị bàn bạc và nhất trí chia xã Bình Mỹ thành 3 xã: Sơn Châu, Sơn Hà và Sơn Bình.

  Xã Sơn Châu gồm 3 thôn: Đông Trung, Đông Tràng, Tứ Mỹ;

Xã Sơn Hà gồm 3 thôn: Vân Sơn, Đào Đạt, Mân Xá;

          Đối với xã Sơn Bình địa dư cơ bản vẫn là phần đất đai của 2 thôn Yên Đồng và Bảo Thịnh cũ, cắt thôn Mọ nhập vào xã Sơn Hà, thôn Long Thịnh chuyển về Sơn Thủy, nhưng lại nhập thêm thôn Quế Lĩnh.

         Tuy xã mới được thành lập nhưng dân cư ở hai thôn Yên Đồng và Bảo Thịnh tuyệt đại đa số đã sinh sống ở đây từ lâu đời, nay chỉ thay đổi địa danh và điều chỉnh một ít về địa giới. Qua thử thách trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, dưới sự lãnh đạo của Đảng, trình độ giác ngộ cách mạng của nhân dân được nâng lên một bước, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ vĩ đại.

           Trong 9 năm chống Pháp, nhân dân đã đóng góp tối đa sức người sức của cho cuộc kháng chiến, lực lượng trẻ khỏe, có trình độ tình nguyện vào quân đội đi chiến đấu trên khắp các chiến trường, một số vào cơ quan Nhà nước, lực lượng ở địa phương chỉ có một ít trung niên sức khỏe yếu còn lại phần lớn là người già, phụ nữ và trẻ em. Trong một xã thuần nông, về phương thức sản xuất cũng như kỹ thuật canh tác chưa có gì cải tiến nên thu nhập còn thấp, vì vậy đời sống còn gặp nhiều khó khăn.

            Để có phương hướng hoạt động, quyết tâm xây dựng xã Sơn Bình ổn định đi vào làm ăn có nề nếp nhằm cải thiện cuộc sống nhân dân, cuối năm 1954, chi bộ xã Sơn Bình tổ chức Đại hội toàn thể đảng viên lần thứ nhất. Tham dự Đại hội có 190 đảng viên. Đại hội nhận định đặc điểm tình hình, đánh giá những thuận lợi, khó khăn khi xã mới được thành lập: hạ tầng cơ sở chưa có gì, mọi việc coi như mới bắt đầu, từ đó Đại hội đã quyết định một số vấn đề sau:

           - Đẩy mạnh sản xuất toàn diện từ nông nghiệp, chăn nuôi đến các nghề khác để tăng thu nhập vừa làm tròn nghĩa vụ đối với Nhà nước vừa góp phần cải thiện mọi mặt đời sống nhân dân, kêu gọi mọi người tiết kiệm;

           - Củng cố tổ chức, bầu cử HĐND, Uỷ ban hành chính xã, các đoàn thể quần chúng, sắp xếp lại các xóm;

           - Củng cố, sắp xếp lại lực lượng dân quân du kích, công an bảo vệ trật tự trị an, góp phần đấu tranh chính trị thực hiện Hiệp định Giơnevơ;

           - Thành lập các tổ chức Đảng theo từng xóm.

           Đại hội đã bầu BCH mới gồm 9 đồng chí, đồng chí Nguyễn Đình Nghị được bầu làm Bí thư chi bộ, đồng chí Lê Kính làm trực Đảng.

           Sau Đại hội chi bộ, xã đã tiến hành bầu cử HĐND gồm 17 người, HĐND đã bầu Ủy ban hành chính gồm 5 người, đồng chí Nguyễn Thị Sinh được phân công làm Chủ tịch Ủy ban hành chính xã.

           Như vậy, về tổ chức Đảng và chính quyền cảu xã lúc mời thành lập được phân công như sau:

  1. Nguyễn Đình Nghị: Bí thư Chi bộ;
  2. Nguyễn Thị Sinh: Chủ tịch Ủy ban hành chính;
  3. Lê Kính: trực Đảng, Chủ tịch Mặt trận Lên Việt xã;
  4. Nguyễn Bảng: trưởng công an xã;
  5. Nguyễn Nhuận: xã đội trưởng;
  6. Nguyễn Thị Thụy: Hội trưởng Hội phụ nữ;
  7. Nguyễn Ngụ: Bí thư Đoàn thành niên xã;
  8. Nguyễn Thuần: Bí thư Nông hội xã.

          Dưới sự lãnh đạo của chi bộ, chính quyền, sau khi đã kiện toàn tổ chức, đã dấy lên phong trào thi đua yêu nước sôi nổi, đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp với tinh thần tương thân tương ái giúp đỡ lẫn nhau như cho vay vốn, vay giống, giúp công, cho mượn trâu bò cày đã gieo trồng chăm bón hết diện tích nên vụ chiêm 1955 thu hoạch đạt khá, đời sống nhân dân được cải thiện hơn trước. Ngoài ra, xã còn huy động mọi lực lượng tiến hành sửa sang lại đường sá, lấp hố bom, lấp giao thông hào, hầm tránh bom đạn… Các xóm quần chúng tổ chức các đội đi khai hoang trồng thêm ngô, khoai, sắn ở vùng sông Con, Voi Bổ.

         Mọi mặt văn hóa xã hội cũng được đẩy mạnh. Phong trào văn hóa, văn nghệ, bổ túc chống tái mù chữ được tiến hành đều đặn.

         Với những thành quả bước đầu, toàn Đảng, toàn dân Sơn Bình bước vào cuộc đấu tranh mới không kém phần gay go, quyết liệt: cải cách ruộng đất, khôi phục kinh tế, cải tạo quan hệ xã hội chủ nghĩa.

  1. Hoàn thành cải cách ruộng đất, khôi phục kinh tế (1955 - 1957)

  Ngay từ trong kháng chiến chống Pháp theo chủ trương của Chính phủ, xã đã tiến hành nhiều đợt phát động nhân dân triệt để giảm tô, giảm tức, thực hiện bước đầu cải cách ruộng đất. Tuy nhiên, do điều kiện chiến tranh ác liệt nên chủ trương này chưa được thực hiện triệt để, phần lớn ruộng đất còn nằm trong tay địa chủ và phú nông. Tháng 1-1953, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ IV (khóa 2) đã quyết định thực hiện nhiệm vụ cách mạng ruộng đất. Ngày 4-12-1953, kỳ họp thứ III Quốc hội khóa I thông qua “Luật cải cách ruộng đất”. Mục đích cải cách ruộng đất nhằm xóa bỏ chế độ phong kiến chiếm hữu ruộng đất của giai cấp địa chủ, thực hiện chế độ sở hữu ruộng đất của nông dân, giải phóng sức sản xuất ở nông thôn.

   Ở Hà Tĩnh, cuộc vận động cải cách ruộng đất diễn ra từ tháng 6-1955 đến tháng 6-1956 (đợt IV và đợt V của Liên khu IV). Cải cách ruộng đất ở Sơn Bình được tiến hành vào đợt IV (từ 6-1955 đến 12-1955).

   Tháng 6-1955, Đội cải cách ruộng đất đợt 4 của Liên khu IV về phát động quần chúng ở huyện Hương Sơn để thực hiện cuộc cách mạng ruộng đất để thực hiện khẩu hiệu: “Người cày có ruộng”. Đây là một cuộc đấu tranh “long trời lở đất” diễn ra ở tất cả các xã trong huyện, trong đó có xã Sơn Bình. Cán bộ đội cải cách ruộng đất về “Dựa hẳn vào bần, cố nông, đoàn kết với trung nông, cô lập địa chủ, đánh đổ giai cấp cường hào, gian ác”.

          Đội về “bắt rễ” xâu chuỗi”, “rễ” “chuỗi” là những người đã từng làm tôi tớ cho nhà địa chủ, họ được đội tập trung bồi dưỡng chính trị về ý thức giai cấp, về thực thi các bước cải cách, về phương pháp đấu tố. Họ được kết nạp vào Đảng và được chỉ định làm lãnh đạo, họ là chỗ dựa của đội cải cách.

          Đội về cùng ăn, cùng ở, cùng làm với “rễ” “chuỗi” rồi qua họ tổ chức lực lượng phát động quần chúng nhân dân nói lên hành động bóc lột của bọn địa chủ.

           Sau khi đã tìm được “rễ” “chuỗi”, đội cải cách giải thể Cấp ủy và Ủy ban hành chính cũ, tiến hành lập ra Cấp ủy và Ủy ban hành chính mới. Cấp ủy mới gồm 9 ủy viên, Ủy ban hành chính mới gồm 5 ủy viên, tất cả được phân công như sau:

  1. Hoàng Thưởng: Bí thư chi bộ;
  2. Nguyễn Thuận: Chủ tịch Ủy ban hành chính;
  3. Nguyễn Bút: trực Đảng;
  4. Nguyễn Thị Minh: Phó Chủ tịch kiêm Trưởng Công an;
  5. Cù Xuân Khiêm: trực Ủy ban hành chính xã;
  6. Nguyễn Lương: Xã đội trưởng;
  7. Phan Hành: Bí thư Nông hội xã;
  8. Cù Thị Tứ: Bí thư Đoàn thanh niên.

Đội cải cách đã phát động quần chúng nhất là bần, cố nông vùng dậy đấu tranh, tố cáo tội ác của địa chủ, phú nông. Mối thù giai cấp được khơi dậy, nhen lên. Tòa án nhân dân đặc biệt được thiết lập để xét xử những cường hào, địa chủ đầu sỏ bị quy kết là có nhiều nợ máu, nhiều tội ác với nông dân. Sau đó, Đội cải cách tiến hành tịch thu, trưng thu ruộng đất, nhà cửa, trâu bò, nông cụ và mọi thứ đồ dùng, tiền bạc… của địa chủ. Công việc cuối cùng là chia quả thực cho nông dân, trong đó ưu tiên thành phần bần, cố nông.

 Với tinh thần “ngày sản xuất - đêm đấu tranh”, nông dân Sơn Bình tích cực tham gia đấu tranh, vạch trần những thủ đoạn áp bức, bóc lột của địa chủ. Qua cuộc phát động quần chúng nhân dân toàn xã đã quy được 22 địa chủ, 10 phú nông, ruộng đất, nhà cửa, trâu bò, tài sản của địa chủ, phú nông bị tịch thu trưng thu hoặc trưng mua toàn bộ hoặc một phần để chia cho nông dân, bà con nông dân hồ hởi phấn khởi đi nhận quá thực hoặc nhà ở và đi cắm thẻ nhận ruộng.

Cuộc cải cách ruộng đất đã thu được thắng lợi to lớn và rất cơ bản, mục tiêu của cách mạng Việt Nam nêu trong Luận cương chính trị 1930 của Đảng ta là “người cày có ruộng” đã thực hiện được, mơ ước ngàn đời của người nông dân đã được đáp ứng, uy quyền của địa chủ phong kiến ở Sơn Bình ngự trị ở nông thôn bao đời nay bị thủ tiêu hoàn toàn, nông dân lao động được giải phóng vĩnh viễn khỏi ách áp bức bóc lột của địa chủ phong kiến, quan hệ sản xuất phong kiến cơ bản bị xóa bỏ hình thành quan hệ sản xuất mới ở nông thôn, tạo điều kiện cho sức sản xuất phát triển.

 Tuy vậy, trong quá trình thực hiện cải cách ruộng đất, cũng như những địa phương khác trên toàn quốc, Sơn Bình đã mắc phải một số sai lầm, các đội cải cách nặng về đấu tố, truy bức tư tưởng, máy móc trong việc phân định thành phần (đảm bảo tỷ lệ 5% là địa chủ), mở rộng quá mức đối tượng đấu tranh; một số cán bộ tốt, nhiều đảng viên chân chính bị xử trí oan sai, làm cho nội bộ Đảng, chính quyền, đoàn thể bị chia rẽ, nghi ngờ lẫn nhau...  Một không khí nặng nề căng thẳng bao trùm lên thôn xóm, nhiều truyền thống đạo đức trong nền văn hóa làng xã, nhiều mối quan hệ bền chặt tốt đẹp trong gia tộc bị cắt đứt, tình đồng chí trong đảng, tình cốt nhục trong họ hàng, tình làng nghĩa xóm trong nhân dân bị phai nhạt.

Nguyên nhân cơ bản của những sai lầm, khuyết điểm kể trên là “do không nắm vững tình hình đặc điểm của địa phương, do trình độ nhận thức của cán bộ bị hạn chế, phương pháp công tác của cán bộ chủ quan, áp đặt, giáo điều, không lắng nghe ý kiến của quần chúng, của tổ chức, các đoàn đội hoàn toàn không dựa vào các tổ chức của địa phương mà dựa vào “rễ, chuỗi” để phát động quần chúng và chỉnh đốn tổ chức. Những sai lầm trong nhận định đánh giá, trong phương pháp lãnh đạo, chỉ đạo của ủy ban, cải cách ruộng đất từ trung ương đến khu ủy đã tạo cho cán bộ Đoàn đội Hà Tĩnh mắc khuyết điểm sai lầm”.[21]

Nhận rõ những thành công và cả những sai lầm trong cải cách ruộng đất ở miền Bắc, tháng 10-1956, Hội nghị lần thứ 10 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã khẳng định những thắng lợi và vạch rõ những sai lầm nghiêm trọng trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức. Hội nghị chủ trương: “Kiên quyết sửa chữa sai lầm trong cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức, phát huy những kết quả và thắng lợi đã thu được... nhằm đoàn kết nội bộ, đoàn kết nhân dân, ổn định nông thôn, gây tinh thần phấn khởi, đẩy mạnh sản xuất”.[22]

Dưới ánh sáng Nghị quyết Trung ương 10, công tác sửa sai được tiến hành từ tháng 10 năm 1956 với phương châm “trên trước, dưới sau; trong Đảng trước, ngoài Đảng sau; sửa sai chỉnh đốn tổ chức trước, sửa sai cải cách ruộng đất sau”.

Đầu tháng 12-1956, Huyện ủy Hương Sơn đã cử cán bộ về họp chi ủy, mở hội nghị chi bộ để phổ biến nghị quyết trên và triển khai kế hoạch của Tỉnh ủy, Huyện ủy, Hội nghị đã nghiên cứu, quán triệt, nhất trí với nhận định của Trung ương và thấy rằng: do chủ quan, giáo điều, không xuất phát từ tình hình thực tế của địa phương nên cán bộ đội cải cách đã cường điệu hóa đấu tranh giai cấp ở xã, cường điệu hóa âm mưu của kẻ địch, dẫn đến mở rộng diện đấu tranh quá mức, đánh cả vào nội bộ của nhân dân, nội bộ Đảng và cán bộ cũ đã gây thiệt hại lớn, ảnh hưởng đến cải cách ruộng đất. Mặt khác, cán bộ đội cải cách do quan niệm kẻ địch đã lũng đoạn được cán bộ, đảng viên, để cho bọn Quốc dân đảng chui vào phá hoại nên chi ủy cũ bị giải tán, cán bộ cũ bị cách chức, đưa cán bộ mới phần lớn thiếu năng lực, không làm được việc lên thay.

Việc đầu tiên chi bộ nghiên cứu, xem xét và quyết định phục hồi Đảng, chức vụ cho số đảng viên đã bị đội cải cách ruộng đất xử lý oan sai và xét cho một số cán bộ mới năng lực yếu nghỉ việc.

Hội nghị tiến hành bầu chi ủy mới gồm 7 đồng chí, được phân công như sau:

  1. Nguyễn Đình Nghị: Bí thư chi bộ kiêm Chủ tịch Ủy ban hành chính;
  2. Nguyễn Xá: Phó Chủ tịch Ủy ban hành chính xã;
  3. Nguyễn Thế Mạnh: trực Ủy ban hành chính xã;
  4. Lê Độ: Xã đội trưởng;
  5. Nguyễn Huệ: Bí thư Đoàn thanh niên;
  6. Nguyễn Thị Quang: Bí thư Hội phụ nữ xã;
  7. Phan Hành: Bí thư Nông hội xã.

           Hội nghị đã bàn bạc, dự kiến sắp xếp lại cán bộ chính quyền, các tổ chức quần chúng, rà soát lại thành phần giai cấp để xét ai bị quy sai thì điều chỉnh lại cho đúng theo sự chỉ đạo của huyện, của tỉnh và giao cho chính quyền tiến hành họp Hội đồng nhân dân để quán triệt và phổ biến chủ trương của Trung ương về công tác sửa sai ra nhân dân.

           Các cuộc hội nghị của chính quyền và tổ chức quần chúng đều được nhân dân tham gia đầy đủ, mọi người đều chăm chú lắng nghe cán bộ phổ biến nội dung sửa sai và các văn bản kiểm điểm ưu khuyết điểm của công tác cải cách ruộng đất của cấp trên, ai nấy đều phấn khởi và giải thoát được ẩn khuất trước đây, yên tâm hơn, nhất là khi được biết trong xã không có tổ chức phản động lũng đoạn và cũng không có ai liên quan đến phản động. Đối với thành phần bóc lột, Đảng và chính quyền xem xét kỹ đi đến quyết định hạ thành phần từ 22 địa chủ xuống còn 12 địa chủ, 10 phú nông xuống còn 6 phú nông và xác định đều là địa chủ, phú nông kháng chiến chứ không phải địa chủ, phú nông phản động, bóc lột như đội cải cách ruộng đất đã quy kết.

Trong thời gian này, toàn Đảng, toàn dân đang tập trung công tác sửa sai, ngày 15-6-1957, tỉnh Hà Tĩnh tự hào và vinh dự được đón Bác Hồ về thăm. Một số cán bộ huyện, xã và một số cán bộ cách mạng lão thành được Tỉnh ủy mời về gặp Bác và nghe Bác nói chuyện. Bác đã phân tích cho mọi người nghe rõ ưu, khuyết điểm của Hà Tĩnh, chỉ ra những nhiệm vụ trước mắt, đặc biệt là phải tiến hành sửa sai và chăm lo đời sống cho nhân dân tốt. Bác ân cần dặn dò phải tăng cường đoàn kết, giữ vững nguyên tắc, kỷ luật trong Đảng, cán bộ đảng viên phải nêu cao tinh thần trách nhiệm, tính tiên phong gương mẫu trước quần chúng để đưa phong trào Hà Tĩnh tiến lên.

Sự quan tâm, lòng ưu ái và lời dặn dò của Bác được truyền đạt nhanh chóng, rộng rãi đến các tầng lớp cán bộ, đảng viên và nhân dân, có sức mạnh to lớn để ổn định tư tưởng, củng cố đoàn kết trong đảng và nhân dân, là động lực tinh thần mạnh mẽ thúc đẩy Hà Tĩnh nói chung và Sơn Bình nói riêng, đẩy mạnh công tác sửa sai và các mặt công tác khác.

Tháng 8-1957, Huyện ủy tăng cường đồng chí Nguyễn Năng Thanh - Huyện ủy viên, người Sơn Bình về trực tiếp làm Bí thư chi bộ xã, đồng chí Nguyễn Đình Nghị làm Chủ tịch Ủy ban hành chính xã.

Nhờ thực hiện đúng các chủ trương, phương pháp sửa sai của Đảng và Nhà nước, sự chỉ đạo sát sao của Huyện ủy, công tác sửa sai ở Sơn Bình tuy gặp nhiều khó khăn nhưng đã tiến hành đúng quy trình, đến cuối năm 1957, công tác minh oan, sửa sai thành phần cơ bản hoàn thành, góp phần cùng toàn quốc hoàn thành thắng lợi cải cách ruộng đất.

          Song song với công tác sửa sai, xã cũng thường xuyên quan tâm chỉ đạo ổn định chính trị, làm tốt công tác an ninh - quốc phòng, đảm bảo sinh hoạt trong Đảng cũng như các đoàn thể nhằm ổn định tư tưởng, giữ vững đoàn kết nông thôn, đẩy mạnh sản xuất. Nhờ vậy mà công tác sửa sai bước đầu thu được kết quả khả quan, lấy lại được lòng tin của quần chúng đối với Đảng.

Để khôi phục và phát triển kinh tế, xã đã chủ trương đắp đập khe Su, một phong trào lao động tự nguyện được dấy lên khắp toàn xã, nhân dân cơm đùm, cơm gói mang theo để làm suốt ngày, có sự tham gia của một số bộ đội, cán bộ thoát ly về nghỉ phép nên chỉ trong một thời gian ngắn một con đập dài 50 m, cao 8 m, rộng 10 m đã hoàn, thành chặn vùng khe Su để lấy nước tưới cho cánh đồng Nhà Chàng, Cơn Mít, khe Giáp Cận, Chàu Mùng. Với thành tích đó, Sơn Bình đã được Ủy ban hành chính tỉnh tặng Bằng khen.

Công tác giao thông thủy lợi đã trở thành phong trào quần chúng, được nhân dân nhiệt liệt hưởng ứng, tự nguyện bỏ công sức ra hoàn thành con đường trục từ đập Choi (đường 8 cũ) lên núi Nhà Chàng (đường 8 mới) với chiều dài gần 4 km, rộng 4 m, biến con đường cũ nhỏ hẹp, ngoằn ngoèo thành một con đường rộng rãi chạy thẳng qua các vườn cây, ruộng nước tạo thuận lợi cho nhân dân đi lại, sản xuất.

 Cũng trong thời gian này, Sơn Bình đã góp phần cùng Sơn Châu chống âm mưu của địch trong việc phao tin đồn nhảm, đả kích cán bộ, dụ giỗ, cưỡng ép đồng bào Thiên chúa giáo ở xứ Đông Trung (Sơn Châu) di cư vào Nam.

  1. Thực hiện cải tạo kinh tế, phát triển văn hoá - xã hội (1958 - 1960)

          Sau khi cải cách ruộng đất cơ bản được hoàn thành, năm 1958, Đảng ta triển khai thực hiện chủ trương lớn là cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các thành phần kinh tế. Tại kỳ họp diễn ra từ ngày 16 đến 29-4-1958, Quốc hội đã thông qua “Kế hoạch 3 năm cải tạo và phát triển kinh tế” (1958-1960). Tiếp đó các Nghị quyết Trung ương lần thứ XIV (11-1958) và lần thứ XVI (4-1959) đã quyết định triển khai thực hiện cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc mà ở nông thôn là cuộc vận động hợp tác hóa nông nghiệp, đưa nông dân vào con đường làm ăn tập thể trong các hợp tác xã, nhằm “xóa bỏ chế độ người bóc lột người ở nước ta, đưa lại đời sống ấm no cho toàn dân ta”.[23]

         Thực hiện chủ trương lớn của Đảng và Chính phủ, theo sự chỉ đạo của Huyện ủy, đầu năm 1958 chi bộ họp đã quyết định vận động nhân dân thành lập các tổ đổi công với tinh thần tương thân tương ái, giúp đỡ nhau trong sản xuất, sinh hoạt. Chủ trương đưa ra được nhân dân hưởng ứng, nhất là các gia đình nghèo, chỉ trong một tháng 13 xóm đều đã có tổ đổi công, các xóm Long Xuyên, xóm Bàu có 2 - 3 tổ đổi công. Đến cuối năm 1958, hầu hết bàn con nông dân đã vào tổ đổi công, góp phần đưa sản xuất đi vào nề nếp, nhờ đó thu hoạch nông nghiệp năm 1958 đạt khá vừa cải thiện đười sống nhân dân vừa hoàn thành tốt nghĩa vụ lương thực đối với Nhà nước.

          Cùng với phong trào thi đua sản xuất, các phong trào y tế, giáo dục, văn hóa, văn nghệ cũng có nhiều tiến bộ. Cuối năm 1958 đầu năm 1959, Hội phụ nữ xã đã vận động thành lập nhà giữ trẻ để những chị em có con nhỏ có điều kiện tham gia sản xuất, học tập và công tác xã hội. Xóm Lặn, xóm Bàu, xóm Long Xuyên là những xóm có nhà trẻ trước tiên. Các bà mẹ như bà Mậu, bà Lý, bà Quế, bà Phê là những người có công đầu trong công tác xây dựng nhà giữ trẻ. Nhà giữ trẻ ngày càng hoạt động tốt, cuối năm 1959 tất cả các xóm đều được các cấp chính quyền và các chi hội phụ nữ, các tổ đổi công giúp đỡ nên xóm nào cũng có nhà giữ trẻ và có đủ phương tiện tối thiểu để đảm bảo phục vụ các cháu vui chơi, học tập. Nhà trẻ xóm Bàu là nhà trẻ hoạt động tốt nhất, đã được đại diện BCH phụ nữ tỉnh về thăm, động viên, rút kinh nghiệm và tặng quà.

          Trong những năm 1958-1959, xã đã chú trọng công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, xây dựng trạm xá do đồng chí Nguyễn Đức Bút và đồng chí Lê Thị Dung phụ trách, lấy đền xóm Long Hội làm nơi khám chữa bệnh. Xã đã mời các cụ Phạm Đồng, Phan Xuân Sinh, Nguyễn Tám là những thầy thuốc Bắc cũ ra phục vụ khám chữa bệnh cho nhân dân theo y học cổ truyền. Xã đã mở quầy bán thuốc Bắc, thuốc Tây, xây nhà hộ sinh và cử cô Lê Thị Hường đi học về phục vụ cho chị em khi sinh đẻ. Trạm y tế và Hội phụ nữ xã phát động nhân dân thực hiện ba công trình cơ bản: nhà tắm, giếng nước, nhà xí 2 ngăn. Phát động phong trào “sạch làng tốt ruộng”, đưa chuồng lợn, chuồng bò ra xa nhà ở. Các cuộc vận động trên đã đạt kết quả tốt.

           Phong trào văn nghệ, thể dục thể thao xã cũng phát triển mạnh. Đoàn thanh niên xã đã tổ chức các phong trào văn nghệ, bóng đá, các vở kịch ngắn, hò vè, thơ ca được biểu diễn ở các cuộc họp, liên hoan.

           Với những thành tích trên, Sơn Bình đã được Tỉnh ủy, Huyện ủy công nhận là xã có phong trào đều các mặt, trở thành xã vững mạnh, được Ủy ban hành chính tỉnh, huyện tặng Bằng khen và vinh dự được đón đồng chí Bí thư Tỉnh ủy về thăm, động viên và trao thưởng trong dịp kỷ niệm ngày Cách mạng tháng Tám thành công.

            Cũng trong thời gian này, Tỉnh ủy và Huyện ủy Hương Sơn động viên xã Sơn Bình sớm thành lập HTX nông nghiệp theo chủ trương của Trung ương. Huyện ủy quyết định xây dựng 4 cơ sở thí điểm trong đó có xã Sơn Bình. Tháng 3-1959, Hội nghị chi bộ quyết định vận động các tổ đổi công liên kết lại để thành lập HTX bậc thấp. Xóm Long Xuyên và xóm Bàu là 2 xóm thành lập HTX đầu tiên. HTX xóm Long Xuyên do đồng chí Nguyễn Khế làm Chủ nhiệm, HTX xóm Bàu do đồng chí Nguyễn Tám làm Chủ nhiệm. Sau đó chi bộ tiến hành rút kinh nghiệm tổ chức, hoạt động của hai HTX trên và vận động tiếp các xóm còn lại thành lập HTX. Kết quả, đến cuối năm 1960, tất cả các xóm trong xã đều thành lập xong HTX nông nghiệp.

            Hoạt động của các HTX lấy công điểm để chia hoa lợi (mỗi công 10 điểm), sau khi đã trừ các khoản chi phí như hoa lợi cho người có ruộng, có trâu bò… Sản xuất theo phương thức mới xã viên rất phấn khởi, hăng hái lao động sản xuất đảm bảo cày cấy hết diện tích, đưa năng suất hoa màu cao hơn trước nên bước đầu HTX đã có sự tín nhiệm trong quần chúng và làm cho một số ít gia đình chưa vào HTX, nhất là gia đình trung nông lớp trên tình nguyện làm đơn xin vào HTX.

           Với những thành tích trong công tác vận động thành lập HTX nông nghiệp, Sơn Bình đã được Ủy ban hành chính tỉnh tặng Bằng khen và cờ luân lưu “Xây dựng HTX sớm nhất”.

           Sau phong trào vận động thành lập HTX nông nghiệp, Trung ương tiếp tục đề ra cuộc vận động thành lập các HTX tín dụng, HTX mua bán để xây dựng nông thôn “3 ngọn cờ hồng” phục vụ đời sống và sản xuất kinh doanh của nhân dân. Tiếp nhận chủ trương của Trung ương, Tỉnh ủy, Huyện ủy, ngoài việc chăm lo củng cố HTX nông nghiệp, chi bộ tiến hành vận động nhân dân thành lập HTX tín dụng nhằm huy động tiền nhàn rỗi trong nhân dân, vay vốn của Nhà nước để cho người thiếu vốn kinh doanh, sản xuất vay, xóa dần nạn cho vay nặng lãi của các gia đình giàu có. Chủ trương của chi bộ được nhân dân hưởng ứng, hăng hái mua cổ phần, góp vốn. Tháng 3-1960, HTX tín dụng được thành lập, Đại hội xã viên đã họp thảo luận dự thảo điều lệ và bầu Ban quản lý gồm 5 người do đồng chí Nguyễn Tuyến làm Chủ nhiệm, đồng chí Nguyễn Toàn làm kế toán trưởng.

           Tiếp đến, tháng 9-1960, chi bộ lại vận động nhân dân mua cổ phần, góp vốn xây dựng HTX mua bán nhằm phục vụ cho xã viên và nhân dân có hàng hóa cần thiết cho đời sống hàng ngày và cung cấp một số nguyên vật liệu cho sản xuất, xây dựng. Sau khi đã đủ điều kiện, tổ chức xã viên mở đại hội thảo luận dự thảo, điều lệ và bầu Ban quản lý gồm 5 người do đồng chí Nguyễn Hoàn làm Chủ nhiệm. HTX đã mở cửa hàng tại bến Thị (xóm Hạ), chọn đồng chí Nguyễn Thư và bà Nguyễn Thị Thảo bán hàng đầu tiên.

           Như vậy, từ cuối năm 1960 xã Sơn Bình đã có ba loại hình HTX tiêu biểu cho “ba ngọn cờ hồng” ở nông thôn để phục vụ đời sống, phục vụ sản xuất, xây dựng xã nhà ngày càng phát triển đi lên.

            Về công tác an ninh - quốc phòng: Luật nghĩa vụ quân sự của Chính phủ được ban hành năm 1958, sau đó Chính phủ chủ trương giải trừ quân bị 8 vạn quân cho phục viên trở về địa phương sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Chấp hành chủ trương, chính sách đối với thương binh, gia đình liệt sỹ, quân nhân phục viên, xã đã bố trí cho bộ đội phục viên vào các HTX để có công ăn việc làm, vận động các gia đình nhận nuôi, nhận thương bình là người ở miền Nam và một số anh em thương binh khác có hoàn cảnh khó khăn, bố trí công việc làm ăn, giúp đỡ xây dựng gia đình, chia vườn tược làm nhà khi ra ở riêng (bà Mai xóm Bàu nuôi đồng chí Hòe, bà Uyên xóm Long Hội nuôi đồng chí Mười, bà Khoan nuôi đồng chí Tích…).

           Xã tiến hành sắp xếp, đăng ký bộ đội phục viên vào lực lượng dân quân 1, dân quân 2 cùng với Huyện đội tổ chức huấn luyện quân sự, diễn tập đề phòng khi địch đổ bộ vào địa bàn xã hoặc các vùng lân cận, luôn đề cao cảnh giác.

          Như vậy, trong thời gian 6 năm (1954-1960) kể từ ngày hòa bình lập lại ở miền Bắc cũng như sau khi điều chỉnh bản đồ hành chính chia lại các xã trong huyện, xã Sơn Bình đã được thành lập trong hoàn cảnh gặp nhiều khó khăn thử thách nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, trực tiếp là chi bộ, sự điều hành quản lý của Ủy ban hành chính xã, vai trò của các tổ chức quần chúng được phát huy nên nhân dân Sơn Bình đã cơ bản hoàn thành các nhiệm vụ quan trọng: phát động quần chúng hoàn thành cải cách ruộng đất, tiến hành sửa sai, ổn định tư tưởng, củng cố tổ chức, cải tạo quan hệ sản xuất XHCN. Trong quá trình đó tuy còn nhiều khuyết điểm những cũng đã đạt được một số kết quả khả quan, có ý nghĩa tạo đà cho chi bộ tiếp tục lãnh đạo nhân dân vươn lên giành thắng lợi trong giai đoạn cách mạng tiếp theo.

            II. LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN KẾ HOẠCH NHÀ NƯỚC 5 NĂM LẦN THỨ NHẤT, XÂY DỰNG HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP BẬC CAO (1961-1965)

            Tháng 9-1960, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III diễn ra tại thủ đô Hà Nội. Đại hội đã xác định hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam là tiến hành xây dựng CNXH ở miền Bắc, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà. Sau thắng lợi của công cuộc cải tạo XHCN, miền Bắc bắt tay vào thực hiện Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, bước đầu xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH (1961-1965). Những nhiệm vụ nặng nề, phức tạp ấy đòi hỏi Đảng phải nâng cao tính giai cấp, tính tiên phong, vững mạnh cả về tư tưởng, tổ chức để không ngừng nâng cao sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của mình. Tháng 4-1961, Trung ương Đảng mở cuộc vận động xây dựng Đảng bộ và chi bộ 4 tốt; phát động phong trào thi đua trong toàn dân, toàn quân: “Đại phong” trong nông nghiệp, “Thành công” trong tiểu thủ công nghiệp, “Duyên hải” trong công nghiệp, “Bắc Lý” trong giáo dục, “Vân Đình” trong y tế, “Ban nhất” trong quân đội…

         Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng về củng cố tổ chức. Chi bộ Đảng lao động Việt Nam cơ sở xã, phường được chuyển thành Đảng bộ. Chi bộ Sơn Bình được chuyển thành Đảng bộ xã Sơn Bình. Tháng 4-1961, Đảng bộ Sơn Bình tổ chức Đại hội lần thứ I (nhiệm kỳ 1961-1962). Đại hội đã đánh giá tình hình lãnh đạo của chi bộ trong 6 năm qua và đề ra phương hướng, nhiệm vụ trong nhiệm kỳ mới. Đại hội khẳng định trong thời gian qua tình hình xã nhà đã có những chuyển biến căn bản, Sơn Bình được tỉnh, huyện tặng Bằng khen và công nhận là xã vững mạnh toàn diện. Đại hội cũng nhận định đây là thắng lợi bước đầu, công việc còn mới mẻ cần phải tìm tòi, học hỏi, rút kinh nghiệm về sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền để tiếp tục đưa phong trào xã nhà tiếp tục tiến lên. Đại hội chỉ rõ âm mưu của bè lũ Mỹ - Diệm đang ra sức phá hoại Hiệp định Giơnevơ, lăm le tấn công ra miền Bắc, cần phải nâng cao cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu.

        Về phương hướng, nhiệm vụ trong nhiệm kỳ tới, Đại hội đã đi sâu bàn bạc và quyết nghị một số vấn đề sau:

        - Đưa các HTX nông nghiệp bậc thấp lên HTX nông nghiệp bậc cao. Đẩy mạnh mọi mặt công tác đi lên vững chắc để đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ sản xuất vụ chiêm xuân và kế hoạch năm 1961-1962, củng cố, phát huy tác dụng của HTX tín dụng, HTX mua bán để phục vụ tốt cho nhu cầu của nhân dân;

         - Củng cố, xây dựng chính quyền, chú trọng xây dựng lực lượng dân quân, công an, đảm bảo trật tự an ninh nông thôn và đáp ứng nhiệm vụ cấp trên giao khi cần thiết;

          - Củng cố, xây dựng các tổ chức quần chúng, nhất là Đoàn thanh niên để thnah niên thực sự trở thành lực lượng hậu bị của Đảng bộ;

          - Xây dựng Đảng bộ, thành lập các chi bộ theo đơn vị HTX, tổ Đảng theo đội sản xuất. Phấn đấu đạt Đảng bộ, chi bộ 4 tốt theo cuộc vận động của Trung ương Đảng.

           Đại hội đã bầu BCH mới gồm 9 ủy viên. Sau Đại hội Đảng bộ, xã đã tổ chức bầu cử Hội động nhân dân xã gồm 19 người, Hội đồng nhân dân bầu ra Ủy ban hành chính gồm 7 người.

            Tổ chức Đảng, chính quyền phân công nhiệm vụ như sau:

  1. Nguyễn Đình Nghị: Bí thư Đảng ủy;
  2. Nguyễn Xá: trực Đảng kiêm Chủ tịch Mặt trận;
  3. Lê Mười: Chủ tịch Ủy ban hành chính;
  4. Nguyễn Tuyến: phụ trách HTX nông nghiệp;
  5. Nguyễn Thị Thụy: Phó Chủ tịch UBHC kiêm trưởng công an;
  6. Nguyễn Hải: Xã đội trưởng;
  7. Nguyễn Quốc Trị: Bí thư Đoàn thanh niên;
  8. Phan Hành: Bí thư Nông hội xã;
  9. Nguyễn Thị Quang: Bí thư Hội phụ nữ.

            Bước vào thực hiện Nghị quyết nhiệm kỳ mới, Đảng ủy đã chỉ đạo việc vận động các HTX nông nghiệp bậc thấp các xóm liên kết lại thành 4 HTX bậc cao. Sau khi các HTX bậc cao thành lập xong đều tiến hành đại hội xã viên, thảo luận điều lệ, bàn kế hoạch và nội dung hoạt động: quản lý lao động, lập đội chuyên, quản lý ruộng đất, trâu bò, công cụ sản xuất, bàn phương pháp ăn chia, phân phối sản phẩm theo nguyên tắc lao động với công thức 3 khoán (chi phí sản xuất, sản phẩm, công điểm). Mỗi HTX đều có nhà kho, trụ sở, sân phơi. Các đội sản xuất cũng có nhà kho, sân trục lúa. Sau khi đã thảo luận, bàn bạc, thống nhất về kế hoạch sản xuất năm 1961, Đại hội đã bầu ra Ban quản trị gồm 5 ủy viên và Ban kiểm soát gồm 3 ủy viên. Cụ thể:

  • HTX Thanh Sơn: đồng chí Nguyễn Văn Sỹ làm Chủ nhiệm;
  • HTX Tân Sơn: đồng chí Nguyễn Khắc Cận làm Chủ nhiệm;
  • HTX Tân Bình: đồng chí Nguyễn Khế làm Chủ nhiệm;
  • HTX Hòa Bình: đồng chí Nguyễn Quế làm Chủ nhiệm.

          Cũng từ đây, các HTX nông nghiệp đều thống nhất và trực tiếp quản lý hết ruộng đất trong xã (trừ đất 5% và ruộng của một số gia đình chưa vào HTX), rồi giao diện tích ruộng đất cho các đội sản xuất theo số lượng xã viên và nhân khẩu. Các đội sản xuất áp dụng chế độ 3 khoán và tiến hành điều động xã viên cày cấy, chăm bón, thu hoạch, phơi khô, quạt sạch. Ngoài công tác sản xuất, đội còn kiêm cả quản lý hành chính, trị an, quốc phòng và công tác chính sách xã hội. Tổ Đảng, các phân chi của các đoàn thể quần chúng cũng được tổ chức theo đội sản xuất. Ban quản lý HTX đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của chi bộ theo phương hướng Đảng bộ đã đề ra, lập kế hoạch, chỉ tiêu sản xuất giao cụ thể cho các đội sản xuất thực hiện.

           Về kinh tế: sau khi thu hoạch xong từng vụ, hàng năm ban quản lý lập kế hoạch phân phối sản phẩm, đóng các loại quỹ, làm nghĩa vụ đối với Nhà nước, phân phối ăn chia theo công điểm lao động. Đối với các hộ già yếu không nơi nương tựa, các hộ thiếu ăn, HTX có kế hoạch điều hòa để đảm bảo mức sống tối thiểu cho các hộ.

           HTX còn lấy sản lượng nông nghiệp để chi phí cho hoạt động quốc phòng - an ninh, giao thông thủy lợi, các công tác xã hội, trợ giúp cho các hộ chính sách, công tác y tế, cung cấp cho các cô, các bà mẹ nuôi dạy trẻ, chi phí cho các hội nghị của Đảng bộ, chính quyền và các đoàn thể quần chúng, cung cấp cho một số cán bộ được cử đi học các lớp chính trị, chuyên môn để về phục vụ cho xã và các HTX.

           Trong thời kỳ này, công tác giao thông thủy lợi đã được chính quyền và HTX coi trọng như công tác giao thông thủy lợi nội đồng, tu bổ đập khe Su, đắp thêm đập Lầy, đập Bông Trèn… Ngoài công sức của xã viên, huyện còn điều cán bộ của huyện công tác ở vùng chợ Choi, thầy giáo và học sinh cấp II, III về giúp đỡ thêm. Nhờ vậy các con đập được tôn lên cao, có đập tràn, có cống giữ tháo nước nên các cánh đồng ở vùng Nhà Chàng, Cơn Mít, Đồng Sủng, Châm Mằng, Thung Đọt đã có nước tưới tiêu khi khô hạn.

            Về chăn nuôi: HTX đã động viện hình thức chăn nuôi tập thể và chăn nuôi theo hộ gia đình. Trâu, bò cày kéo HTX giao cho hộ xã viên chăn dắt lấy công điểm. HTX giao chỉ tiêu cho từng hộ xã viên bán thịt lợn, cung cấp lợn con giống cho xã viên chăn nuôi. Mỗi HTX đều có trại chăn nuôi tập thể trâu bò hậu bị , trâu bò thịt, lợn thịt để làm nghĩa vụ đối với Nhà nước hoặc phục vụ xã viên vào những ngày lễ tết, các cuộc hội họp… như các trại ở Cơn Mít, Thung Đọt, Cồn Rò, đôi 9, Trại Khẩu. HTX Tân Bình còn tổ chức một đội sản xuất khai hoang ở vùng khe Su, khe Lòng để trồng thêm sắn phục vụ chăn nuôi. Với những thành tích trên, Sơn Bình đã được Ủy ban hành chính tỉnh công nhận là lá cờ đầu về chăn nuôi tập thể của tỉnh.

           Lúc này ở miền Nam, sau phong trào “Đồng khởi” (1959-1960), hình thức thống trị bằng chính quyền tay sai độc tài Ngô Đình Diệm bị thất bại, đế quốc Mỹ buộc phải chuyển sang thực hiện chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, đồng thời âm mưu hoạt động do thám, xâm nhập phá hoại miền Bắc, ngăn cản công cuộc xây dựng CNXH và đấu tranh thống nhất nước nhà của nhân dân ta.

          Để vừa tiếp tục đẩy mạnh công tác sản xuất về mọi mặt, vừa đối phó với âm mưu của kẻ thù, Đảng ủy, Ủy ban hành chính xã đã chú trọng các công tác:

          - Song song với công tác phát triển, củng cố phong trào HTX, đẩy mạnh sản xuất, phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội đồng thời phải chú trong công tác trị an, quốc phòng;

          - Tiến hành nắm lại lực lượng trong đối tượng nghĩa vụ quân sự tuổi từ 17 - 42 tổ chức thành hai lực lượng: dân quân 1 và dân quân 2;

          - Tiến hành đăng ký và quản lý lực lượng dự bị bao gồm sỹ quan và binh sỹ phục viên, xuất ngũ;

          - Tổ chức các đơn vị tuần tra, canh gác, theo dõi các hoạt động của địch, đảm bảo trật tự trị an trong thôn xóm, canh phòng tuần tra vùng khe Su, núi Mồng Gà, khe Lòng noóc để đề phòng địch thả biệt kích thám báo. Các lực lượng được tổ chức xong đều tiến hành tập luyện và diễn tập bảo vệ thôn xóm, bắt biệt kích…

           Tháng 1-1962, thể theo nguyện vọng của 2 chi bộ, HTX nông nghiệp Tân Sơn và HTX nông nghiệp Thanh Sơn hợp lại thành HTX Thanh Bình do đồng chí Nguyễn Khắc Cận làm Chủ nhiệm. Như vậy, toàn xã Sơn Bình chỉ còn 3 HTX: Thanh Bình, Tân Bình và Hòa Bình.

           Được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của Đảng ủy, chính quyền xã và huyện nên 3 loại hình HTX nông nghiệp, tín dụng, mua bán đều thi đua hoàn thành các nhiệm vụ. HTX mua bán kịp thời mua các mặt hàng thiết yếu để phục vụ xã viên, HTX tín dụng phục vụ nhân dân vay vốn, gửi tiền tiết kiệm ngày càng vượt mức. Các HTX nông nghiệp ngoài việc đẩy mạnh sản xuất còn quan tâm cải tiến kỹ thuật, mạnh dạn du nhập các loại giống lúa mới như Nam Ninh, Trân Châu lùn vào đồng ruộng. HTX Thanh Bình tiếp tục giữ vững và phát huy danh hiệu lá cờ đầu toàn tỉnh về chăn nuôi. Trại thụ tinh nhân tạo để gây giống lợn cũng được xây dựng ở xã Sơn Bình.

          Với những thành công đó, kinh nghiệm của các HTX ở Sơn Bình đã được Ủy ban hành chính tỉnh tổng kết, đúc rút, phổ biến cho phong trào HTX toàn tỉnh. Với những thành tích đạt được trong 2 năm (1961-1962), Sơn Bình đã được Ủy ban hành chính tỉnh tặng Bằng khen và Chính phủ tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Ba.

          Tháng 8-1962, Đại hội Đảng bộ Sơn Bình khóa II (nhiệm kỳ 1962-1964) được tổ chức tại.................... Đại hội đã đi sâu đánh giá những kết quả đạt được của xã nhà trong nhiệm kỳ qua: Nhờ sự cố gắng nỗ lực của Đảng bộ, chính quyền cùng nhân dân xã nhà đã đạt được những thành tích về các mặt: chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội và an ninh - quốc phòng. Nổi bật là đã hợp nhất các HTX bậc thấp thành 3 HTX bậc cao. Cả 3 loại hình HTX đã thực hiện đúng các kế hoạch đề ra, đạt kết quả cao về mọi mặt đảm phục vụ đời sống cho xã viên và hoàn thành nghĩa vụ đối với Nhà nước. Đại hội cũng đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ trong nhiệm kỳ tới là:

        - Củng cố và phát triển một cách vững chắc 3 loại hình HTX để cải thiện thêm một bước đời sống cho xã viên và nhân dân, làm tròn nghĩa vụ đối với Nhà nước. Các HTX nông nghiệp kết hợp việc hoàn thiện quan hệ sản xuất với xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, mạnh dạn đưa giống mới vào, rút kinh nghiệm chỉ đạo công tác 3 khoán để đưa năng suất cây trồng, vật nuôi cao hơn các năm trước;

         - Lãnh đạo nhân dân thực hiện tốt chủ trương của huyện về việc di dời một số hộ lên định cư ở vùng kinh tế mới trên xã Sơn Kim;

         - Củng cố lại lực lượng dân quân, tổ chức đội tuần tra canh gác, thực hiện nghiêm chỉnh luật nghĩa vụ quân sự, đảm bảo an toàn cho nhân dân, ứng phó kịp thời với mọi tình huống;

         - Chú trọng công tác phát triển đảng viên, củng cố, xây dựng các tổ chức quần chúng vững mạnh, mạnh dạn sắp xếp cho một số cán bộ chủ chốt đi học bổ túc văn hóa, học chính trị, học chuyên môn. Tiếp tục xây dựng Đảng bộ, chi bộ, đảng viên đạt tiêu chuẩn 4 tốt và vững mạnh;

         Đại hội đã tiến hành bầu Ban Chấp hành mới gồm 11 đồng chí. Thực hiện Nghị quyết Đại hội, xã đã tiến hành bầu cử Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính xã, các tổ chức quần chúng. Các HTX tiến hành Đại hội tổng kết công tác và rút kinh nghiệm, lập kế hoạch, bầu Ban quản trị mới.

        Cán bộ chủ chốt trong thời gian này được phân công như sau:

  1. Lê Mười: Bí thư Đảng ủy;
  2. Cao Phúc: Trực Đảng;
  3. Nguyễn Đình Nghị: Chủ tịch Ủy ban hành chính xã;
  4. Nguyễn Thị Thụy: Phó Chủ tịch UBHC kiêm trưởng công an;
  5. Nguyễn Thắng Lợi: Xã đội trưởng;
  6. Lê Nghiêm: Bí thư Đoàn thanh niên;
  7. Lê Thị Lan: Hội trưởng Hội phụ nữ;
  8. Phan Hành: Bí thư Nông hội xã;
  9. Nguyễn Khắc Cận: Chủ nhiệm HTX Thanh Bình;
  10.  Nguyễn Tạo: Chủ nhiệm HTX Tân Bình;
  11.  Nguyễn Tuyến: Chủ nhiệm HTX Hòa Bình.

         Sau khi kiện toàn tổ chức, ngoài việc lãnh đạo nhân dân đẩy mạnh sản xuất, xây dựng các mặt công tác khác, từ quý 4 năm 1962 đến đầu năm 1963, Đảng ủy, Ủy ban hành chính xã tiếp tục chỉ đạo công tác di dân lên vùng kinh tế mới trên xã Sơn Kim. Ủy ban hành chính xã giao nhiệm vụ cho mỗi HTX nông nghiệp lập một tổ lao động 10 người lên vùng khe Yên Lòi, Khe Sú, Khe Trưng khai phá đất hoang hóa, khai thác gỗ, tre, nứa để làm nhà cho các hộ di dân. Kết quả, đã vận động được 33 hộ dân với 185 nhân khẩu, trong đó có 5 hộ gia đình có đảng viên (tiêu biểu là hộ đồng chí Lê Mười - Bí thư Đảng ủy xã, hộ đồng chí Cao Phúc - trực Đảng) tình nguyện lên vùng kinh tế mới xã Sơn Kim lập nghiệp. Xã đã tổ chức làm được 33 ngôi nhà 2 gian bằng gỗ tốt ở vùng Khe Yên, tổ chức đưa đón, vận chuyển đồ đạc của các hộ đến nơi ở mới. Khi lên vùng kinh tế mới, mỗi hộ có khoảng 3 sào đất vườn, 12 mẫu đất bãi, đất đồi để trồng trọt, 33 hộ thành lập 1 HTX nông nghiệp đồng thời là 1 xóm của xã Sơn Kim. Đến năm 1964, công tác di dân hoàn thành, các hộ ổn định cuộc sống và tiến hành sản xuất.

          Cùng với việc phát triển phong trào hợp tác hóa và đẩy mạnh sản xuất,  phong trào văn hóa, văn nghệ, cải thiện đời sống nhân dân cũng đạt nhiều thành tích. Phong trào ca hát để tuyên truyền, động viên xã viên làm phân bón, nuôi bèo hoa dâu, cải tiến kỹ thuật,áp dụng giống mới. Qua đó, xã viên đã hăng hái thi đua lao động sản xuất nên đã vượt các chỉ tiêu về cây trồng, vật nuôi, năng suất vụ chiêm năm 1964 vượt hơn năm 1962. Nhờ vậy, một số gia đình đã lợp được nhà ngói, gép sân gạch, mua xe đạp, có gia đình có tiền mua đài bán dẫn để nghe tin tức.

          Song song với công tác phát triển, củng cố phong trào hợp tác hóa, đẩy mạnh sản xuất, phát triển kinh tế - văn hóa, công tác quốc phòng và trị an cũng được Đảng bộ hết sức chú trọng.

          Trước những âm mưu, hoạt động do thám, xâm nhập phá hoại miền Bắc ngày càng tăng cường của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, công tác bố phòng được tăng cường. Đảng ủy, chính quyền, công an, xã đội nghiêm chỉnh chấp hành các chủ trương, biện pháp của cấp trên, tiến hành tổ chức huấn luyện cho dân quân, phổ biến, tuyền truyền cho nhân dân cảnh giác, theo dõi âm mưu của kẻ địch, bố trí dân quân, công an canh phòng những nơi địch có thể nhảy dù như vùng núi phía nam xã. Các cuộc họp liên tịch giữa Ủy ban, công an, xã đội của xã Sơn Bình với các xã khác như Sơn Trà, Sơn Châu, Sơn Thủy để bàn kế hoạch phối hợp và phân chia, bố trí khu vực theo dõi, canh gác để kịp thời ứng phó khi có biệt kích nhảy dù xuống địa bàn.

           Đảng ủy tổ chức các cuộc hội nghị mở rộng gồm cán bộ Đảng, chính quyền, các tổ chức quần chúng và HTX để bàn về công tác đẩy mạnh sản xuất, phát triển kinh tế kết hợp với xây dựng quốc phòng an ninh. Xã đội, công an tiếp tục củng cố lực lượng dân quân, công tác an ninh, động viên thanh niên sẵn sàng làm nghĩa vụ quân sự. Đầu năm 1963 đã có 32 thanh niên lên đường nhập ngũ, số còn lại vừa tập luyện vừa tiến hành sản xuất, làm các công trình thủy lợi, khai hoang, phục hóa.

            Đầu năm 1964, đế quốc Mỹ tăng cường hoạt động khiêu khích, đe dọa, gây sức ép đối với miền Bắc để hòng cứu nguy cho ngụy quân, ngụy quyền Sài Gòn đang lâm vào thế thất bại. Máy bay địch nhiều lần xâm phạm vùng trời Hương Sơn và thả các chất lạ xuống địa bàn huyện.

           Trước âm mưu và hành động chiến tranh mới của địch, Trung ương Đảng và Hồ Chủ tịch đã triệu tập Hội nghị chính trị đặc biệt tại Hà Nội, khẳng định ý chí, quyết tâm đấu tranh giành độc lập, thống nhất đất nước, kêu gọi mỗi người dân làm việc bằng hai vì miền Nam ruột thịt.

           Đáp lại lời kêu gọi của Bác Hồ, Đảng ủy đã tổ chức các cuộc hội nghị nhằm quán triệt cho cán bộ, đảng viên và nhân dân thấy được thắng lợi của quân dân 2 miền Bắc - Nam để ra sức thi đua lập công trên mọi mặt trận công tác. Các chi bộ, tổ chức quần chúng, các đội sản xuất, xã viên đều có nội dung thi đua cụ thể nhằm thực hiện vượt mức các chỉ tiêu đã đề ra.

           Tháng 6-1964, Đại hội Đảng bộ xã Sơn Bình khóa III (nhiệm kỳ 1964-1966) được tổ chức tại….......... Đại hội đã đánh giá qua hai năm thực hiện nhiệm vụ chính trị đề ra từ Đại hội khóa II (1962-1964), xã nhà đã lập được nhiều thành tích xuất sắc, các mặt công tác đều tiến bộ rõ rệt, hoàn thành mọi nhiệm vụ đề ra, nhất là đã thành công trong việc đưa 33 hộ dân lên định cư và lập nghiệp ở vùng kinh tế mới Sơn Kim. Các HTX đi vào nề nếp, bà con rất tin tưởng vào con đường làm ăn tập thể. Đại hội cũng chỉ ra những hạn chế, phê phán sâu sắc những mặt yếu kém trong nhiệm kỳ qua như còn chủ quan, thiếu cảnh giác, chưa mạnh dạn và kiên quyết đấu tranh với các biểu hiện tiêu cực trong Đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên, phong trào thi đua chưa đồng đều, công tác 3 khoán chất lượng chưa cao, có biểu hiện tăng công, phóng điểm.

             Trên thực tế của xã nhà và nhiệm vụ cấp trên giao, Đại hội đã quyết nghị các nhiệm vụ trong nhiệm kỳ tới là:

            - Tiếp tục đẩy mạnh phong trào thi đua “Mỗi người làm việc bằng hai vì miền Nam ruột thịt” một cách đồng đều trên mọi mặt công tác để hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu đề ra. Các HTX nông nghiệp phải đẩy mạnh sản xuất, đưa năng suất cây trồng, vật nuôi cao hơn các năm trước, đảm bảo làm tròn nghĩa vụ với Nhà nước, sẵn sàng chi viện cho miền Nam;

            - Đẩy mạnh hoạt động của HTX mua bán, HTX tín dụng nhằm phục vụ tốt hơn nữa cho sản xuất và đời sống nhân dân;

            - Tuyên truyền, phổ biến cho nhân dân thấy rõ âm mưu, thủ đoạn của đế quốc Mỹ và bọn tay sai, nêu cao tinh thần cảnh giác, đảm bảo tốt công tác quốc phòng an ninh, sẵn sàng chiến đấu.      

            - Ra sức xây dựng Đảng, chính quyền, các tổ chức quần chúng và các HTX phát huy tác dụng theo chức năng của mình, mà mấu chốt là xây dựng chi bộ, đảng viên “4 tốt” đủ sức lãnh đạo hoàn thành nhiệm vụ được giao.

              Do nhu cầu công tác của trên, một số đảng ủy viên được điều động đi công tác như đồng chí Lê Mười - Bí thư Đảng ủy, đồng chí Cao Phúc - Trực Đảng di dân lên vùng kinh tế mới Sơn Kim; đồng chí Nguyễn Thị Thụy - Phó Chủ tịch Ủy ban hành chính và một số đồng chí khác được huyện điều động.

            Đại hội đã bầu Ban Chấp hành mới gồm 11 đồng chí, đồng chí Nguyễn Đình Nghị được bầu giữ chức vụ Bí thư Đảng ủy; đồng chí Nguyễn Ngoạn - trực Đảng.

             Sau Đại hội Đảng bộ, Đảng ủy chỉ đạo tiến hành tổ chức bầu cử HĐND gồm 17 ủy viên và bầu 5 ủy viên Ủy ban hành chính, đồng chí Nguyễn Xá được bầu giữ chức vụ Chủ tịch Ủy ban hành chính xã, các tổ chức quần chúng, các HTX đều tổ chức đại hội bầu Ban Chấp hành, Ban quản trị mới và bàn kế hoạch hành động tiếp nối theo Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ để vận động nhân dân thực hiện.

             Cán bộ chủ chốt của xã trong thời kỳ này được phân công như sau:

  • Đồng chí Nguyễn Nghị: Bí thư Đảng ủy;
  • Đồng chí Nguyễn Ngoạn: trực Đảng;
  • Đồng chí Nguyễn Xá: Chủ tịch Ủy ban hành chính xã;
  • Nguyễn Thắng Lợi: Phó chủ tịch kiêm trưởng công an xã;  
  • Nguyễn Thính: Xã đội trưởng;
  • Nguyễn Thị Oanh: trực Ủy ban hành chính xã;
  • Cù Thị Loan: Bí thư Đoàn xã;
  • Lê Thị Lan: Bí thư Phụ nữ xã;
  • Nguyễn Tạo: Chủ nhiệm HTX Tân Bình;
  • Nguyễn Khắc Cận: Chủ nhiệm HTX Thanh Bình;
  • Nguyễn Tuyến: Chủ nhiệm HTX Hòa Bình.

    Trong lúc Đảng bộ đang lãnh đạo nhân dân chuẩn bị thu hoạch lúa vụ thu, chăm bón lúa vụ mùa và triển khai các mặt công tác khác thì ngày 5-8-1964, đế quốc Mỹ gây ra "sự kiện Vịnh Bắc bộ” để gây ra cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc. Từ đây, nhân dân miền Bắc nói chung và nhân dân Sơn Bình nói riêng bước vào cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ với dự báo hết sức khốc liệt. Cả nước ta trực tiếp tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước với muôn vàn khó khăn, gian khổ nhưng rất vẻ vang.

      III. LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN CHỐNG CHIẾN TRANH PHÁ HOẠI CỦA ĐẾ QUỐC MỸ, XÂY DỰNG TIỀM LỰC MỌI MẶT ĐỂ ĐẢM BẢO ĐỜI SỐNG CHO NHÂN DÂN VÀ CHI VIỆN CHO TIỀN TUYẾN (1965 - 1975)

    1. Nhân dân Sơn Bình góp phần đánh thắng chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của đế quốc Mỹ (1965 - 1968)

    Sau khi dựng lên “Sự kiện vịnh Bắc bộ”: Vu cáo tàu chiến của Hải quân Bắc Việt Nam tấn công tàu khu trục Ma-đốc của Mỹ trên hải phận quốc tế thuộc Vịnh Bắc Bộ, ngày 5-8-1964, đế quốc Mỹ đã cho máy bay ném bom bắn phá cửa sông Gianh (Quảng Bình), Vinh - Bến Thuỷ (Nghệ An), Lạch Trường (Thanh Hóa), Hòn Gai (Quảng Ninh). Sau 7 tháng ngừng ném bom để thăm dò dư luận trong và ngoài nước, ngày 7-2-1965, Mỹ lại cho máy bay ném bom đảo Cồn Cỏ (Vĩnh Linh - Quảng Trị) và thị xã Đồng Hới (Quảng Bình) chính thức phát động cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân và hải quân lần thứ nhất (7/2/1965-31/10/1968). Cũng từ đây, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta chuyển sang giai đoạn mới: giai đoạn cả nước có chiến tranh. Nhiệm vụ của quân và dân miền Bắc lúc này là nhanh chóng chuyển mọi hoạt động từ thời bình sang thời chiến, thực hiện tốt công tác phòng không nhân dân, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.

            Trước những chuyển biến nhanh chóng của tình hình chiến tranh trong nước. Tháng 3-1965, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 11 để xác định nhiệm vụ của cách mạng mỗi miền và khẳng định: Miền Bắc là hậu phương lớn của tiền tuyến lớn miền Nam. Kháng chiến chống Mỹ cứu nước là nhiệm vụ thiêng liêng của toàn Đảng, toàn dân. Công cuộc xây dựng kinh tế, phát triển văn hóa xã hội ở miền Bắc trước hết phải vì sự nghiệp đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam.

            Đối với huyện Hương Sơn, tại Đại hội lần thứ XI (7-12-1964) đã quán triệt Chỉ thị 81-CT/TW của Bộ Chính trị Trung ương Đảng, Nghị quyết tháng 8-1964 của Tỉnh ủy Hà Tĩnh về việc chuyển mọi hoạt động từ thời bình sang thời chiến, nêu cao quyết tâm đánh bại mọi âm mưu, hành động chiến tranh của địch…Từ đó, Đại hội đã đề ra những chủ trương, biện pháp xây dựng lực lượng quốc phòng, an ninh, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân, kết hợp kinh tế với quốc phòng, vừa giữ vững và đẩy mạnh mọi mặt sản xuất, công tác trong bất kỳ tình huống nào, vừa sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc, bảo vệ địa bàn dân cư, bảo vệ sản xuất, bảo đảm giao thông vận tải và làm tròn nhiệm vụ chi viện chiến trường.[24]

         Dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy Hà Tĩnh mà trực tiếp là Huyện ủy Hương Sơn, Đảng bộ xã Sơn Bình đã phát động nhiều phong trào quần chúng phát huy tinh thần cách mạng, tăng cường củng cố và xây dựng tổ chức Đảng và các đoàn thể quần chúng vững mạnh, đẩy mạnh sản xuất, xây dựng hậu phương vững mạnh, kịp thời chi viện sức người, sức của cho cuộc kháng chiến; đồng thời, tăng cường lãnh đạo xây dựng và tổ chức lực lượng sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi, bảo vệ vững chắc thành quả 10 năm xây dựng CNXH, góp phần cùng nhân dân cả nước đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai. Đây là thời kỳ hết sức gay go, gian khổ của Đảng bộ và nhân dân địa phương, nhưng với quyết tâm cao, trong 4 năm kháng chiến chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của đế quốc Mỹ, Đảng bộ Sơn Bình đã lãnh đạo nhân dân thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ sau đây:

        - Chuyển mọi hoạt động từ thời bình sang thời chiến

              Trước âm mưu mở rộng chiến tranh ra miền Bắc của Mỹ, Đảng bộ, chính quyền, Mặt trận, các HTX đã mở các cuộc họp nhằm làm cho toàn Đảng, toàn dân thấy được tình hình và nhiệm vụ mới, thấy được âm mưu, thủ đoạn chiến tranh của kẻ địch, bàn các biện pháp thực hiện các chỉ thị của cấp trên như tổ chức lực lượng chiến đấu, kế hoạch phòng tránh bom đạn cho nhân dân, kế hoạch chuyển mọi hoạt động từ thời bình sang thời chiến sau 10 năm hòa bình xây dựng, sản xuất phải gắn liền với nhiệm vụ chiến đấu, đảm bảo an toàn tính mạng cho nhân dân, sẵn sàng chi viện cho miền Nam. Từ đây, trụ sở làm việc của Ủy ban hành chính xã và các đoàn thể, các lớp học đều sơ tán vào nhà dân. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, chính quyền, xã đội, công an tiến hành củng cố tổ chức lực lượng dân quân thành đơn vị chiến đấu và phục vụ chiến đấu, ứng cứu giao thông. Huy động và hướng dẫn nhân dân đào hầm hào cá nhân và gia đình, phân tán tài sản tập thể ra nhiều nơi để tránh bom đạn địch.

          Máy bay địch loại F101, 105 ngày càng đánh phá ác liệt các mục tiêu giao thông, cầu cống... Lúc đầu nhân dân còn hoang mang, bỏ công việc làm ăn, có gia đình không dám ở trong nhà, chạy ra đồi, lùm lòi để kiếm nơi ẩn nấp cả ngày, chiều tối mới dám về nhà. Trước tình hình đó, Đảng ủy, Ủy ban hành chính, xã đội một mặt tuyền truyền, giải thích ổn định dần tư tưởng cho nhân dân để yên tâm tranh thủ sản xuất. Xã đội đã tổ chức hai chòi để cảnh giới cả ngày lẫn đêm để báo động khi có may bay địch đến, đắp 3 trận địa và tổ chức một trung đội dân quân bắn máy bay bằng súng trường và súng trung liên ở khu vực Cu Cu để bảo vệ đường 8 do đồng chí Nguyễn Đức Bình, Nguyễn Đức Báo chỉ huy, tổ chức một trung đội công binh ở mỗi HTX nông nghiệp và giao chuẩn bị sẵn sàng mọi phương tiện ứng cứu để đảm bảo giao thông đường 8 thông suốt ở khu vực đập Choi, cầu Nầm. Cụ thể: HTX Tân Bình một trung đội 30 người, Hòa Bình 30 người và Thành Bình 40 người.

           Từ đầu năm 1965, một số cơ quan của huyện, của tỉnh dời về xã Sơn Bình. Ngành kho thóc của huyện, của quốc phòng đã làm 10 kho (xóm 6: 2 kho, xóm 4: 2 kho, xóm 3: 6 kho), cửa hàng thực phẩm ở chợ Choi chuyển về xóm 7, trường Bổ túc văn hóa công nông của tỉnh chuyển về đóng tại xóm 3, xóm 4 và xóm 10, một tổ bưu điện về xóm 7, một tổ bảo vệ phà Linh Cảm ở xóm 7, một đợn vị phòng không của quân đội trú quân tại xóm 5 và xóm 6, Ty Lâm nghiệp về đóng tại xóm 2, 3, 4, Binh đoàn 12 cho ô tô trú ẩn trong lùm lòi Cửa Ông, lòi Nen... Các cơ quan, đơn vị dời về làm việc trong nhà dân đều được đón tiếp niềm nở, chu đáo. Nhân dân cùng cán bộ cơ quan lo làm lán trại, kho tàng, đào hầm hào trú ẩn, nơi làm việc, hội họp... Xã đội cùng cơ quan công an tổ chức lực lượng canh phòng đảm bảo bí mật, trật tự an toàn, nhất là ban đêm tuyệt đối không để lộ ánh sáng.

          - Sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi

          Máy bay Mỹ ngày càng bắn phá ác liệt hơn, pháo sáng chúng thả thâu đêm, một số cán bộ, nhân dân ta bước đầu cũng lo lắng, hoang mang nhưng nhờ công tác truyền, định hướng tư tưởng kịp thời đã làm ổn định tình hình và nhất là sau chiến thắng trận đầu của quân dân thị xã Hà Tĩnh - Rú Nài bắn rơi 12 máy bay Mỹ ngày 26-3-1965. Tinh thần mọi người dân được vững vàng hơn, các tổ chức quần chúng vững vàng hơn, đặc biệt là tổ chức Đảng qua bước đầu chỉ đạo, lãnh đạo rút ra ưu khuyết điểm, bổ cứu kịp thời qua các đợt sinh hoạt thường xuyên, các phong trào thanh niên “ba sẵn sàng’, phụ nữ “ba đảm đang”, phong trào đăng ký xung phong phục vụ tiền tuyến vượt bậc.

          Ngày 3-8-1965, máy bay địch bay vào trận địa phòng không của xã, dân quân đã kịp thời nổ súng đuổi chúng ra khỏi địa bàn nhưng sau đó chúng quay lại thả 6 quả bom trong đó có một quả không nổ, rất may không ai bị thương. Sau trận chiến đấu này, theo đề nghị của xã, Ủy ban hành chính huyện đã biểu dương khen thưởng cho 9 đồng chí dân quân gồm Nguyễn Văn Bình, Lê Quýnh, Lê Thung, Lê Tôn Báo, Phan Nhâm, Lê Dưỡng, Nguyễn Đức Báo, Trần Tự, Nguyễn Văn Chính). Đối với quả bom chưa nổ, Ủy ban hành chính xã quyết định tháo gỡ để đảm bảo an toàn cho nhân dân. Nhiệm vụ này được giao cho 3 đồng chí dân quân tình nguyện cảm tử là Cù Lâm, Phan Nhâm, Lê Văn. 3 đồng chí đã nhận và hứa làm tròn nhiệm vụ, Ủy ban hành chính xã cũng hứa nếu có việc gì không may xảy ra sẽ đảm bảo quyền lợi cho anh em. Kết quả, mở bom an toàn và lấy được 210 kg thuốc nổ, vỏ quả bom đó hiện đang dùng làm kẻng báo hiệu ở trụ sở Ủy ban nhân dân xã. Thành tích chiến đấu và gỡ tháo bom đã được Ủy ban hành chính tỉnh tặng Bằng khen.

          Ngày 12-9-1965, Mỹ lại ném hàng chục quả bom xuống đập Choi, tối hôm đó hàng trăm dân quân Sơn Châu, Sơn Bình lại gồng gánh nai cuốc ra lấp hố bom bất thình lình Mỹ lại ném bom ở đây. Đoàn quân Sơn Bình ra trước mấy phút đúng vào thời điểm giặc ném bom nên chết mất 4 người gồm đồng chí Nguyễn Tạo là chủ nhiệm hợp tác xã nông nghiệp Tân Bình (Sơn Bình), đồng chí Nguyễn Thành là giáo viên, đồng chí Nguyễn Thân và Nguyễn Thị Hạnh là 2 anh em ruột. Đồng chí Nguyễn Thị Nhạn bị thương phải cưa chân, sau này được hưởng chính sách như thương binh. Đêm hôm đó và cả ngày hôm sau, Đảng ủy, Ủy ban hành chính xã đã tổ chức làm lễ truy điệu, chôn cất. Cả 4 đồng chí đó đều được công nhận là liệt sỹ. Đó là những đồng chí đã hi sinh trên mảnh đất quê hương.

          Công tác chuẩn bị chiến đấu và phục vụ chiến đấu ngày càng khẩn trương hơn từ sản xuất, hội họp, học tập... nhiều việc phải tiến hành vào ban đêm. Sản xuất ngoài đồng ruộng phải chia thành từng nhóm nhỏ 2, 3 người, không được tập trung ồ ạt như trước đây và phải tránh các giờ cao điểm hoạt động của máy bay địch, nhất là từ 10 giờ sáng đến 14 giờ chiều.

           Để rút kinh nghiệm trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo vừa đẩy mạnh sản xuất vừa sẵn sàng chiến đấu, bảo đảm an toàn và thu được nhiều kết quả tốt hơn, Ủy ban hành chính xã đã tiến hành sơ kết các mặt công tác, nắm lại lực lượng, chuẩn bị phương án và kế hoạch trong năm 1966. Tính đến tháng 10-1965, Đảng bộ và Ủy ban hành chính xã đã phát động đảng viên và nhân dân thực hiện 5.715 ngày công đào đắp được 1.395 hầm cá nhân, 35 hầm công cộng có nắp, 5215 m giao thông hào. Ngoài ra xã còn huy động nhân dân đi lấp hố bom ở vùng cầu Nầm, đập Choi, huy động thanh niên tòng quân, đi học các lớp chuyên nghiệp, đi thanh niên xung phong. Trong một năm, Sơn Bình đã bổ sung vào quân đội 52 thanh niên, thanh niên xung phong 18 người, công an 6 người, đi học các trường chuyên nghiệp 8 người (tổng công 84 người). Ngoài ra 228 dân quân xã còn được tổ chức thành một trung đội dân quân gồm 89 người trong đó có 29 đảng viên, 24 đoàn viên, 10 bộ đội phục viên; 5 trung đội dân quân hai hỗn hợp gồm 64 nam và 75 nữ trong đó có 18 đảng viên, 54 đoàn viên, 10 bộ đội phục viên. Lực lượng dân quân xã được huyện đội trang bị cho 22 khẩu súng trường, 2 khẩu trung liên. Phân loại dân quân để có cơ sở điều động vào bộ đội là 107 người trong đó có 48 người dự bị 1, 59 người dự bị 2, đủ sức khỏe 53 người. Hai lực lượng này đã tiến hành huấn luyện quân sự để khi bổ sung vào quân đội là có thể tham gia chiến đấu ngay và sẵn sàng chiến đấu nếu địch tập kích, thả biệt kích vào địa bàn xã, huyện nhà.

         Cuối năm 1965 là những tháng mưa bão, địch càng đánh phá ác liệt hơn, tuyến đường quốc lộ 8 phần thì bị địch đánh phá, phần thị bị mưa lũ làm sạt lở, các hầm hố, giao thông hào trong xã bị ngập nước, hư hỏng. Để đảm bảo mạch máu giao thông thông suốt, đảm bảo an toàn tính mạng cho nhân dân, xã đã phát động tu sửa lại hầm hào, tổ chức lực lượng ứng cứu khi bị địch nứm bom bắn phá trên các tuyến đường với phương châm “tay cày, tay súng”, anh em thanh niên, dân công thay phiên nhau vừa đảm bảo chiến đấu vừa đẩy mạnh sản xuất vụ chiêm xuân 1966.

             Vấp phải sự đánh trả quyết liệt của quân dân ta, để đánh lừa dư luận thế giới, đế quốc Mỹ tuyên bố ngừng ném bom miền Bắc trong 36 ngày kể từ ngày 24-12-1965 để tỏ “thiện chí hòa bình”.

            Lợi dụng thời gian địch ngừng bắn, Tỉnh ủy Hà Tĩnh đã phát động chiến dịch tết Quang Trung làm giao thông vận tải. Hưởng ứng chiến dịch, xã đã huy động tối đa lực lượng dân quân san lấp hố bom, sửa lại mặt đường ở đập Choi, cầu Nầm để đảm bảo giao thông vận chuyển hàng hóa từ Nghệ An vào Quảng Bình, Vĩnh Linh. Xã cũng đã huy động xã viên, nhân dân sửa sang lại hầm hào và tranh thủ sản xuất gấp 2, 3 để thay thế cho dân quân, thanh niên hoàn thành nhiệm vụ phía trước.

          Với khí thế khẩn trương và tinh thần thi đua quyết thắng, trong 36 ngày đêm đã hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao. Ngoài ra xã còn đón tiếp và chuẩn bị cho một đơn vị quân y của Đoàn 559 về đóng tại đền xóm Hội, cán bộ của đoàn và anh em thương binh đều ở nhà dân và một số lán trại ở các xóm 6, 7, 8.

          Ngày 31-1-1966, không quân Mỹ trở lại đánh phá miền Bắc với mức độ ngày càng ác liệt gấp bội. Trong năm 1966, địch tăng cường đánh phá vào Hà Tĩnh gấp 3 lần năm 1965. Riêng ở Hương Sơn, chúng đánh 204 lần, có những tháng chúng đánh liên tục như tháng 4 đánh 26 lần, tháng 8 đánh 43 lần. Càng về sau, máy bay địch càng đánh phá khốc liệt với nhiều thủ đoạn tinh vi, dùng đủ loại bom đạn giết người từ rốc két, đến bom phá, bom bi, bom nổ chậm.

         Trước những thủ đoạn mới của địch, Trước những thủ đoạn mới của địch, thời gian đầu về phía ta còn bỡ ngỡ, lúng túng, phải chịu những thương vong và tổn thất. Nhưng dần dân quân và nhân dân trong xã đã kịp thời rút kinh nghiệm, khắc phục và vươn lên chiến thắng. Hưởng ứng chủ trương của Huyện ủy Hương Sơn, Đảng ủy đã lãnh đạo chính quyền và các đoàn thể tiến hành đại hội “3 sẵn sàng” (của thanh niên), “3 đảm đang” (của phụ nữ), “5 tốt” (của phụ lão) cùng các đại hội “hai giỏi” của công nông binh tạo nên một không khí rầm rộ, sôi nổi trong toàn xã. Công tác giáo dục chính trị tư tưởng từ trong Đảng ra ngoài quần chúng được cấp ủy coi trọng. Đảng bộ đã tổ chức cho đảng viên và nhân dân học tập bài nói chuyện của Hồ Chủ tịch với đoàn cán bộ Hà Tĩnh ngày 6-7-1966 và lời kêu gọi kháng chiến chống Mỹ của Người (ngày 7-7-1966). Qua các cuộc vận động cũng như các buổi học tập, ý chí chiến đấu của mọi người dân được nâng lên, đẩy lùi những tư tưởng tiêu cực, hoang mang, dao động trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân.

         Ngày 1-6-1966, Tỉnh ủy phát động toàn dân thi đua thực hiện chiến dịch thủy lợi lấy tên là “Chiến dịch thủy lợi Bồng Sơn”. Chiến dịch thủy lợi Bồng Sơn diễn ra trong những ngày tháng ác liệt của chiến tranh, thực sự là một mặt trận gay go, ác liệt, trên công trường thủy lợi không chỉ có đổ mồ hôi mà có khi còn phải đổ cả máu của người tham gia công trình.

         Dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy, Ủy ban hành chính xã, các HTX đã huy động toàn thể xã viên tham gia làm thủy lợi với khẩu hiệu “Vì miền Nam ruột thịt”, “Vì Bịnh Định và Bồng Sơn kết nghĩa”. Chiến dịch được toàn dân nhiệt liệt hưởng ứng, các đội sản xuất có kế hoạch, có chỉ tiêu cụ thể cho từng hội viên, đoàn viên, xã viên phấn đấu, HTX mua bán lo đảm bảo hàng hóa, nhu cầu thực phẩm, dụng cụ sản xuất phục vụ chiến dịch kịp thời. Các cụ phụ lão có phong trào đan sọt, làm quang gánh nhập cho HTX mua bán để phục vụ chiến dịch.

           Chiến dịch thủy lợi Bồng Sơn diến ra trong 2 tháng. Kết quả, nhân dân Sơn Bình đã đào đắp được 33.364 m³ đất, bình quân 11 m³/người, biến các cánh đồng manh mún, mấp mô, nơi cao nơi thấp thành những “cánh đồng Bồng Sơn”, “cánh đồng Nguyễn Văn Bé”, “cánh đồng thắng Mỹ” có bờ vùng bờ thửa thẳng tắp thành những thửa ruộng ô vuông 5 sào, 1 mẫu với đường trục nội đồng vươn từ các xóm lên tận chân núi rộng 3 m, tiêu biểu như con đường từ xóm 7, xóm 6 chạy dài đến cánh đồng Minh Tự, hoặc con đường từ xóm Hương (xóm 5) đến vùng Phúc Đạn, mỗi con đường dài hơn 1 km, vừa đảm bảo giao thông đi sản xuất vừa đảm bảo có nước tưới, từ sản xuất một vụ trước đây lên hai vụ ăn chắc. Đây thực sự là một cuộc cách mạng cải tạo đồng ruộng chưa từng có và đi đôi với nó là cải tạo được tư tưởng làm ăn manh mún, thủ cựu có tính chất lâu đời của bà con nông dân, tạo điều kiện đưa tiến bộ kỹ thuật, đưa các giống lúa mới như Ré Quảng, Ré Trầm, Ré Liễu vào, đưa bèo hoa dâu phủ kín đồng ruộng. HTX nông nghiệp đã bắt đầu sử dụng máy bơm dầu để chống hạn. Năm 1966 là năm thắng lợi lớn trên nhiều mặt của nhân dân Sơn Bình, nhất là thủy lợi nhưng lại bị thiên tai quá nặng, hạn hán kéo dài, sâu bệnh liên tiếp nên sản lượng thu hoạch cả năm không cao, riêng vụ thu có hơn các năm trước.

          Tháng 7-1966, Đảng bộ tổ chức Đại hội khóa IV (nhiệm kỳ 1966-1968) tại…............ Đánh giá về những thành tích đã đạt được, Đại hội phấn khởi nhận thấy trong nhiệm kỳ vừa qua, Đảng bộ đã lãnh đạo nhân dân xã nhà chuyển hướng kịp thời mọi công tác, sinh hoạt từ thời bình sang thời chiến. Nhờ vậy, nên mọi mặt công tác như sản xuất, học tập, chiến đấu, làm nghĩa vụ đối với Nhà nước đều hoàn thành vượt mức. Nổi bật nhất là chiến dịch thủy lợi Bồng Sơn, cải tạo đồng ruộng, công tác chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu. Đại hội cũng đã nghiêm khắc kiểm điểm những tồn tại, hạn chế của Đảng bộ, phân tích và chỉ rõ âm mưu, thủ đoạn thâm độc của kẻ thù đối với 2 miền Nam - Bắc. Trên cơ sở đó, Đại hội đã xác định nhiệm vụ của toàn Đảng bộ trong nhiệm kỳ này là:

         - Lãnh đạo, chỉ đạo công tác tổ chức bầu cử HĐND, Ủy ban hành chính xã, tổ chức đại hội các đoàn thể và các HTX để tổng kết thi đua “làm theo lời Bác” vừa qua, đề ra nhiệm vụ và kế hoạch trong 2 năm 1966-1968, kiện toàn đội ngũ cán bộ để đủ sức lãnh đạo;

         - Tổng kết công tác thi đua, rút ra mặt mạnh, mặt yếu để tiếp tục đẩy mạnh sản xuất, chiến đấu và phục vụ chiến đấu, đảm bảo đời sống và an toàn tính mạng cho nhân dân;

         - Bình xét Đảng bộ, chi bộ vững mạnh nhằm đẩy mạnh phong trào thi đua tiếp theo.

          Đại hội đã bầu Ban Chấp hành mới gồm 13 ủy viên, đồng chí Nguyễn Tuyến được bầu giữ chức vụ Bí thư Đảng ủy, đồng chí Nguyễn Hữu Ngôn - trực Đảng.

           Sau Đại hội, Đảng bộ tập trung chỉ đạo công tác bầu cử HĐND, Ủy ban hành chính xã, đại hội các đoàn thể và các HTX để bầu ban chấp hành và ban quản trị mới, đề ra phương hướng, nhiệm vụ thời kỳ tiếp theo.

            Cán bộ chủ chốt trong nhiệm kỳ này được phân công như sau:

  • Đồng chí Nguyễn Tuyến: Bí thư Đảng ủy;
  • Đồng chí Nguyễn Hữu Ngôn: Thường vụ Đảng ủy, trực Đảng;
  • Đồng chí Nguyễn Xá: Phó bí thư, Chủ tịch Ủy ban hành chính xã;
  • Đồng chí Nguyễn Thắng Lợi: Đảng ủy viên, Xã đội trưởng;
  • Đồng chí Phan Thị Oanh: Đảng ủy viên, trực Ủy ban hành chính xã;
  • Đồng chí Phan Hành: Đảng ủy viên, Bí thư Nông hội xã;
  • Đồng chí Cù Thị Xoan: Đảng ủy viên, Bí thư Đoàn thanh niên;
  • Đồng chí Nguyễn Thuyết: Đảng ủy viên, Chủ nhiệm HTX NN;
  • Đồng chí Nguyễn Khương: Đảng ủy viên;
  • Đồng chí Nguyễn Hải: Đảng ủy viên;
  • Đồng chí Trần Đức: Đảng ủy viên;
  • Đồng chí Nguyễn Quang: Đảng ủy viên, Chủ tịch kiểm soát HTX NN.

          Đảng ủy đã chỉ đạo tiến hành tổng kết thi đua từ cơ sở tổ, đội trở lên để đánh giá kết quả hoạt động của đơn vị mình và bình chọn những cá nhân tiêu biểu trong phong trào. Ngày 11-8-1966, Đảng ủy và Ủy ban hành chính xã đã tổ chức Đại hội tổng kết, có 65 đại biểu tiêu biểu cho phong trào được mời tham dự. Ban thi đua xã đã đánh giá kết quả thi đua trong hai năm 1964-1966 các tổ chức quần chúng, các HTX đã giấy lên mạnh mẽ, hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu mà Đại hội Đảng bộ đề ra. Đại hội đã biểu dương tinh thần thi đua của tất cả các hội viên, xã viên tiêu biểu, và chọn ra 238 cá nhân tiêu biểu, gồm:

  • Phụ lão “3 giỏi”: 59 cụ/105 cụ;
  • Thanh niên “3 sẵn sàng”: 125/185;
  • Phụ nữ “3 đảm đang”: 183/627;
  • Dân quân “quyết thắng”: 67/247;
  • Xã viên “2 giỏi”: 236/808

          Trong 238 cá nhân tiêu biểu, Đại hội tiếp tục bầu ra 4 người tiêu biểu nhất đi dự đại hội thi đua toàn huyện, đề nghị Ủy ban hành chính cấp huyện tặng giấy khen cho 30 cá nhân, cấp giấy chứng nhận cho 128 cá nhân và đề nghị Ủy ban hành chính tỉnh tặng Bằng khen cho 4 cá nhân.

           Cũng tại Đại hội này, đồng chí Bí thư Đảng ủy đọc lời kêu gọi: “Toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ra sức chống Mỹ cứu nước” của Hồ Chủ tịch ra ngày 26-7-1966: “Không có gì quý hơn độc lập tự do!” và Chỉ thị của Tỉnh ủy: “Vâng lời Bác, thi đua lập công dâng Bác”. Đại hội cũng đã nghiên cứu, thảo luận và biểu quyết nhất trí phương hướng thi đua của xã trong 2 năm 1967-1968.

           Phát huy thắng lợi của Đại hội tổng kết thi đua, toàn xã đã giấy lên một phong trào thi đua rộng khắp từ các đội sản xuất đến các phân chi đoàn thể, từng cá nhân đều đăng ký thi đua thực hiện kế hoạch Đông Xuân 1966-1967 và phục vụ chiến đấu trong mọi trường hợp. Cán bộ Đảng ủy, Ủy ban, xã đội, công an, mặt trận xuống tận các xóm, các gia đình kiểm tra nắm tình hình để đôn đốc, động viên, hướng dẫn việc tu bổ hầm hào tránh bom đạn, các đơn vị dân quân, công an tuần tra canh gác, củng cố lại hầm hào trận địa vững chắc. Các ngành y tế, thông tin văn hóa đều có kết hoạch phục vụ phong trào thi đua. Các trường học đảm bảo lán trại để cho học sinh học tập an toàn, đẩy mạnh phong trào thi đua “Hai tốt”. Phong trào thành niên “3 sẵn sàng”, phụ nữ “3 đảm đang” đã thành phong trào có nề nếp, lực lượng thanh niên là lực lượng xung kích trên mọi mặt công tác như sản xuất, phục vụ dân công, sẵn sàng ứng cứu giao thông vận tải, việc gì khó đều do thanh niên, đoàn viên đảm nhiệm. Chị em phụ nữ đảm đang việc nhà, sản xuất ngoài đồng ruộng, một số chị em còn nhận công tác lãnh đạo ở xóm, ở xã… để anh em nam giới vào bộ đội, đi dân công hỏa tuyến. “Phong trào phụ nữ “3 đảm đang” ngày càng sôi nổi, phong trào phụ nữ xã Sơn Bình là điển hình của huyện. Hội đồng giáo viên trường cấp I Sơn Bình gồm toàn nữ mà đảm đang hết mọi công việc, trở thành trường tiến tiến của tỉnh, được Thứ trưởng Bộ Giáo dục Hồ Trúc về thăm, động viên khen ngợi và được nhân dân trìu mến gọi là trường “3 đảm đang”.[25]

          Phong trào thi đua ngày càng được đẩy mạnh, công tác bình xét từng đơn vị và cá nhân được tiến hành thường xuyên, Ban thi đua xã đã kịp thời biểu dương khen thưởng những cá nhân, đơn vị có thành tích xuất sắc.

         Bước sang năm 1967, đế quốc Mỹ vậy tăng cường ném bom và tung biệt kích vào miền Bắc, thủ đoạn của chúng vẫn tiếp tục đánh phá vào các trọng điểm giao thông, chúng còn đánh vào cả vùng dân cư. Chúng dùng các loại bom bi, bom từ trường, bom nổ chậm, thủy lôi, bom lân tinh… để đánh phá hòng ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc vào miền Nam. Ngày 7-5-1967, chúng ném bom vào xóm 9 làm chết 1 người và cháy 3 nhà dân. Mặc dù chiến tranh ngày càng ác liệt nhưng bà con xã viên vẫn đảm bảo cấy hết diện tích để bù đắp những thiếu hụt về lương thực năm 1966.

         Từ ngày 26-3 đến 19-5-1967, Tỉnh ủy tiếp tục phát động các hợp tác xã và xã viên triển khai chiến dịch “50 ngày lập công” với 5 mũi giáp công: thủy lợi, phân bón, công cụ, giao thông vận tải và phòng không nhân dân. Hưởng ứng chủ trương của cấp trên, Đảng ủy Sơn Bình đã phát động thanh niên làm ruộng nhân giống bèo hoa dâu để cung cấp cho các đội sản xuất để phủ kín diện tích tăng độ phì nhiêu, nhân dân sử dụng phân tiêu bón đồng ruộng. Nhờ vậy vụ chiêm xuân năm 1967 thắng lợi, năng suất bình quân đạt 25,5 - 26 tạ/ha, gặt đến đâu tranh thủ ăn chia đến đó và đóng thuế làm nghĩa vụ Nhà nước kịp thời, đảm bảo “thóc không thiếu một cân”.

         Phong trào chăn nuôi lợn, gà cũng phát triển mạnh thành phong trào “nuôi lợn chống Mỹ”, “nuôi gà chống Mỹ”. HTX Thanh Bình tiếp tục giữ vững danh hiệu lá cờ đầu về chăn nuôi tập thể của tỉnh.

          Mùa hè năm 1967, bị hạn hán nặng, 3 tháng liền (6,7,8) không có một hạt mưa, đồng ruộng khô hạn, nguy cơ không có nước để cày cấy vụ thu mùa. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, Ủy ban hành chính và Ban quản trị HTX đã huy động mọi lực lượng để chống hạn, với khẩu hiệu “vắt đất ra nước”, “thay trời làm mưa” như đào giếng, đào ao lấy nước, tát nước ở bàu Hàn lên nên đã đảm bảo cấy được lúa vụ thu, vụ mùa đúng kế hoạch. Nhưng từ ngày 17-9 đến ngày 25-10-1967, các cơn bão số 6, số 7, số 8 dồn dập đổ bộ vào địa bàn xã nhà, trong đó cơn bão số 7 quá mạnh, gây ra lụt lớn và mưa kéo dài. Trước tình hình đó, xã đã tổ chức các đội dân quân, thanh niên phân công nhau canh giữ, bảo vệ đập Khe Su, đập Lầy, đập Choi khỏi vỡ, đồng thời bà con xã viên khẩn trương tranh thủ gặt các thửa ruộng lúa thu đã bắt đầu chín với khẩu hiệu “xanh nhà hơn già đồng”. Sau bão lại huy động lực lượng hàn gắn đường sá liên thôn, liên xã và nội đồng bị bão lụt tàn phá gây hư hỏng nặng.

           Có thể nói, năm 1967 là một năm nhân dân Sơn Bình chống cả thiên tai, địch họa, mọi khó khăn, vất vả chồng chất, nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, chính quyền và sự quyết tâm của nhân dân nên đã vượt qua tất cả mọi thử thách.

           Thực hiện Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ huyện khóa XII, Đảng bộ xã Sơn Bình đã bàn bạc, nhất trí sát nhập 3 HTX nông nghiệp Thanh Bình, Tân Bình, Hòa Bình thành 1 HTX nông nghiệp toàn xã gọi là HTX Đại Bình. Xã Sơn Bình lúc bấy giờ có 716 hộ với 2.688 nhân khẩu, đã vào HTX 682 hộ với 2.595 nhân khẩu, còn 34 hộ với 83 nhân khẩu chưa vào HTX,trong đó phần lớn là hộ người già, độc thân.

           HTX Đại Bình đã tiến hành Đại hội đại biểu xã viên để bàn bạc và quyết định nhiệm vụ, kế hoạch sản xuất và quản lý các mặt công tác năm 1967 là: củng cố công tác 3 khoán và quản lý chặt chẽ hơn, tập trung xây dựng các cấp đội, tổ chức các đội chuyên để đủ sức chỉ đạo xã viên sản xuất tốt, chiến đấu tốt.

           Đại hội đã tiến hành bầu Ban quản trị gồm 15 ủy viên do ông Nguyễn Thuyết làm Chủ nhiệm, đồng chí Nguyễn Khương làm Phó Chủ nhiệm.

           Tết Mậu Thân (1968), cuộc tổng tấn công và nổi dậy của quân dân ta ở miền Nam đã giáng cho kẻ thù những đòn chí tử. Hòa cùng với không khí phấn khởi, hào hùng đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, nhân dân Sơn Bình lại sôi nổi hưởng ứng cuộc động viên chính trị của Trung ương Đảng và phong trào “liên tục tiến công, liên tục nổi dậy” do Tỉnh ủy Hà Tĩnh phát động. Xã Sơn Bình đã khơi dậy được truyền thống, làm sống lại không khí hào hùng của Xô viết năm xưa trong sản xuất và chiến đấu, phong trào tình nguyện vào Nam chiến đấu và phục vụ chiến đấu của thanh niên “3 sẵn sàng”, phụ nữ “3 đảm đang" rất rầm rộ. Sau tết, địch lại đánh phá ác liệt hơn, nhưng chúng bị lực lượng phòng khong của ta bắn hạ nhiều máy bay, bắt nhiều giặc lái.

           Hoảng sợ trước sự lớn mạnh của dân quân hai miền Nam - Bắc Việt Nam, đế quốc Mỹ chuyển sang chiến dịch: “Ném bom hạn chế” đối với miền Bắc chúng tập trung đánh phá đối với Bắc Nghệ an, Hà Tĩnh hòng dốc toàn lực cắt đứng cuống họng của con đường chi viện từ Bắc vào Nam của ta. Chiến dịch “ném bom hạn chế” của đế quốc Mỹ từ tháng 4 đến tháng 10-1968 diễn ra vô cùng ác liệt. Tất cả bom đạn Mỹ tập trung vào yết hầu của con đường chi viện Bắc - Nam nhất là bom TN và bom nổ chậm đã gây cho ta những tổn thất lớn về người và của. Ở Hương Sơn, chúng đánh phá cả ngày lẫn đêm vào các điểm: đập Choi, cầu Nầm, dọc sông Ngàn Phố, Ngàn Sâu, phà Linh Cảm…

           Để đối phó với âm mưu và thủ đoạn mới của địch, Ban quản lý HTX nông nghiệp đã tổ chức lại các nhóm sản xuất phân tán để đảm bảo an toàn. Đảng ủy, Ủy ban hành chính chỉ đạo nhân dân đào hầm trong nhà, đêm ngủ dưới hầm; các trường học, các nơi công cộng phải đào hầm chữ A có nắp đậy, mọi sinh hoạt, học tập đều phải có hầm hào. Nhờ vậy, một phong trào làm hầm hào diễn ra sôi nổi đảm bảo tránh được bom bi, bom cháy.

           Xã đội tổ chức lại lực lượng chiến đấu và bố trí tại các trận địa phòng không, tổ chức thêm một trung đội lão quân, một trung đội nữ quân, tập trung huấn luyện bắn máy bay bằng súng trường. Địch bắn phá ngày càng ác liệt, các trận địa ngày nào cũng trực chiến, tổ công binh, đội ứng cứu giao thông đêm nào cũng làm việc, không để xe chở hàng hóa không bị ách tắc.

          Ngày 20-5-1968, Đảng bộ xã Sơn Bình tổ chức Đại hội khóa V (nhiệm kỳ 1968-1970) tại….......... Đại hội đã đánh giá kết quả lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ trong nhiệm kỳ qua, mặc dù trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt, thiên tai nặng nề nhưng Đảng bộ và nhân dân Sơn Bình đã hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ từ sản xuất, chiến đấu đến phục vụ chiến đấu và làm nghĩa vụ hậu phương, nổi bật là tư tưởng ổn định, cán bộ, đảng viên và nhân dân có quyết tâm cao trong mọi hoàn cảnh.

           Đại hội cũng đã xác định nhiệm vụ trong nhiệm kỳ tới là rất nặng nề, đế quốc Mỹ sẽ còn đánh phá ác liệt hơn, xã nhà còn phải đương đầu và chịu đựng nhiều khó khăn trong sản xuất, phục vụ chiến đấu và chi viện cho tiền tuyến. Đại hội khẳng định: Dù bất cứ khó khăn ác liệt đến mấy, Đảng bộ và nhân dân Sơn Bình phản quyết tâm phấn đấu làm tốt và hoàn thành mọi nhiệm vụ trên giao. Muốn vậy, cán bộ và đảng viên phải phải gương mẫu đi đầu trong mọi nhiệm vụ làm, cho mọi tầng lớp nhân dân tin tưởng vào thắng lợi của quân dân 2 miền Nam - Bắc.

           Đại hội đã bầu Ban Chấp hành mới gồm 13 ủy viên, đồng chí Nguyễn Xá được bầu giữ chức vụ Bí thư Đảng ủy; đồng chí Nguyễn Thị Hưng giữ chức vụ Phó bí thư, phụ trách chính quyền; đồng chí Trần Đức - trực Đảng.

            Sau cuộc bầu cử HĐND và Ủy ban hành chính xã, đồng chí Nguyễn Thị Hưng - Phó bí thư Đảng ủy được bầu giữ chức Chủ tịch Ủy ban hành chính xã. Đảng ủy và Ban quản lý HTX nông nghiệp mở đợt thi đua thu hoạch nhanh gọn vụ chiêm xuân trong điều kiện vừa sản xuất vừa sẵn sàng chiến đấu. Các đội tiến hành thu hoạch vào buổi sáng sớm hoặc buổi chiều để tránh giờ cao điểm máy bay địch đánh phá, gặt đến đâu phân phối cho xã viên đến đó để vừa phân tán vừa phơi khô quạt sạch để kịp thời hoàn thành nghĩa vụ thuế nông nghiệp đối với Nhà nước.

           Thực hiện chủ trương của Chính phủ, các cháu ở vùng Vĩnh Linh (Quảng Trị), vùng nam Quảng Bình được đưa ra các tỉnh phía Bắc để đảm bảo an toàn về người và để cho các cháu có điều kiện học tập. Xã Sơn Bình là một điểm dừng chân tạm nghỉ mỗi đợt các cháu đi qua. Xã đã thành lập một ban để đón tiếp, phục vụ các cháu ăn nghỉ do đồng chí Nguyễn Thắng Lợi làm trưởng ban, đồng chí Nguyễn Tuyến làm kế toán cùng với Ban chấp hành phụ nữ xã. Địa điểm đón tiếp tại xóm 7. Tính đến cuối năm 1968, xã đã đón tiếp 1.350 cháu, đảm bảo an toàn và chu đáo.

            Trong lúc mọi công tác đang rất khẩn trương thì vào lúc 23 giờ ngày 13-9-1968, máy bay Mỹ thả bom bi, bom cháy xuống các xóm 6, 7, 8 làm cho 5 người bị chết, 47 người bị thương, 12 ngôi nhà bị cháy, trên 10 con trâu bò bị chết, 1 quả trúng kho thực phẩm của huyện thiệt hại trên chục tấn hàng. Để đề phòng địch ném bom trở lại, chi bộ xóm 7 đã tổ chức cho người già và trẻ em sơ tán sang các xóm khác. Hai ngày sau, chúng lại đánh tiếp vào các xóm 7, 8 và các vùng lân cận, có quả trúng vào cánh đồng Cồn Cao, có quả trúng vào xóm 10 làm cháy 2 ngôi nhà. Nhiều gia đình phải đi sơ tán hết, để nhà cửa, trâu bò, lợn gà cho anh em dân quân trông coi.

           Trước tình hình bom đạn ngày càng ác liệt, một số cán bộ và nhân dân rất lo lắng, hoang mang, sinh hoạt hàng ngày vô cùng thiếu thốn, không có dầu thắp đèn, không có mắm muối để ăn, thời điểm này lại là mùa mưa lũ nên rất khó khăn. Ngoài việc huy động lực lượng phòng không, lấp hố bom, vận chuyển hàng phục vụ đời sống nhân dân, xã còn phải tổ chức lực lượng bảo vệ các đập nước khỏi vỡ, sẵn sàng phục vụ nhân dân khi có lụt lớn, đồng thời còn huy động bà con xã viên thu hoạch lúa vụ thu, chăm bón lúa mùa.

           Lúc 12 giờ đêm 27-10-1968, máy bay địch lại thả bom vào xóm 8 làm 1 người chết, 3 người bị thương, cháy 2 ngôi nhà.

           Trước những thiệt hại về người và của do địch gây ra ngày càng tăng, cấp ủy Đảng và chính quyền lại tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo khẩn trương làm tốt công tác tư tưởng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân rút kinh nghiệm công tác phòng tránh. Các đoàn thể quần chúng đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục nâng cao lòng yêu nước, căm thù giặc và ý chí chiến đấu, chịu đựng gian khổ, hy sinh cho hội viên, đoàn viên. Công tác phòng không được đẩy lên một bước, hầm hào được củng cố lại vững chắc hơn, khả năng phòng tránh tốt hơn.

            Bị thất bại nặng nề trên cả 2 miền Nam - Bắc, lại bị sự lên án mạnh mẽ của dư luận tiến bộ trên thế giới. Đêm 1-11-1968, Tổng thống Mỹ Giôn - Xơn buộc phải tuyên bố chấm dứt vô điều kiện việc đánh phá miền Bắc Việt Nam. Cuộc chiến đấu của quân dân miền Bắc chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của đế quốc Mỹ đã hoàn toàn thắng lợi.

           Trải qua 4 năm với biết bao gian khổ hy sinh mà nhân dân Sơn Bình đã phải chịu đựng, 14 người chết, 61 người bị thương, 20 nóc nhà bị cháy và chết hơn 30 con trâu, bò, lợn chưa kể bom đạn cày nát trên các cánh đồng, vườn tược, đường sá, cầu cống… Trong những năm tháng đó, cùng với sự đánh phá ác liệt của kẻ thù là thiên tai nắng hạn, bão lụt liên tiếp hàng năm gây ra cho Đảng bộ và nhân dân rất nhiều khó khăn. Nhờ sự lãnh đạo sáng suốt của Tỉnh ủy, Huyện ủy mà trực tiếp là Đảng bộ xã, nhân dân Sơn Bình từng bước vượt qua những thử thách ác liệt chưa từng thấy của cuộc chiến tranh, kịp thời chuyển hướng mọi hoạt động từ thời bình sang thời chiến, xây dựng và củng cố tiềm lực mọi mặt của địa phương, đương đầu với mọi hành động đánh phá của kẻ thù, khắc phục mọi khó khăn, đảm bảo được sản xuất, giữ vững được mọi sinh hoạt mặc dù còn thiếu thốn, hoàn thành mọi nghĩa vụ trên giao góp phần vào thành tích chung của huyện, của tỉnh trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước.

          Qua thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo phong trào, Đảng bộ đã được tôi luyện và trưởng thành thêm một bước. Hầu hết cán bộ, đảng viên đều nêu cao vai trò tiên phong gương mẫu, có mặt ở những nơi khó khăn gian khổ ác liệt nhất để làm tròn vai trò nhiệm vụ của mình.

        Bên cạnh những thành tích cơ bản nêu trên, trong lãnh đạo cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của đế quốc Mỹ, Đảng bộ cũng bộc lộ nhiều tồn tại. Trước sự đánh phá ác liệt của kẻ thù, nhất là thời gian đầu của cuộc chiến tranh ác liệt của kẻ thù, một bộ phận cán bộ, đảng viên còn tỏ ra dao động, lúng túng. Hiệu suất chiến đấu và phục vụ chiến đấu buổi đầu còn thấp. Công tác xây dựng Đảng tuy có nhiều cố gắng và đạt được một số thành tích nhất định song nói chung Đảng bộ vẫn chưa thực sự ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ cấp bách của cách mạng.

          Từ những thành công và cả những khó khăn, tồn tại của phong trào xã nhà trong những năm 1965-1968, Đảng bộ và nhân dân Sơn Bình sẽ rút ra được những bài học kinh nghiệm quý báu để tiếp tục vươn lên giành nhiều thành tích xuất sắc hơn trong những năm tháng tiếp theo của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

   2. Khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế - văn hóa, đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai của đế quốc Mỹ (1969 - 1973)

   Từ tháng 11-1968 đến tháng 3-1972, đế quốc Mỹ buộc phải tạm ngừng ném bom đánh phá miền Bắc nước ta.

   Thực hiện theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh “hễ còn một tên xâm lược nào trên đất nước ta thì còn phải tiếp tục chiến đấu quét sạch nó đi”, ngày 16-11-1968, Tỉnh ủy Hà Tĩnh ra Nghị quyết “Thừa thắng xông lên, khẩn trương thực hiện tốt những nhiệm vụ cần kíp trước mắt”.

   Đảng ủy xã Sơn Bình mở một đợt sinh hoạt chính trị nhằm làm cho toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân nhận thức đầy đủ về thắng lợi to lớn của quân dân ta, âm mưu và thủ đoạn mới của địch và xác định nhiệm vụ của năm 1969: nhân dân và cán bộ xã nhà phải giữ vững ý chí chiến đấu, tiếp tục đẩy mạnh công tác phòng không nhân dân, làm tốt công tác giao thông vận tải, trước mắt là lấp hố bom, sửa chữa quốc lộ 8, đẩy mạnh sản xuất vụ Đông Xuân, đảm bảo lương thực thực phẩm chi viện cho miền Nam.

   HTX Đại Bình được thành lập từ cuối năm 1967 đầu năm 1968, hoạt động trong điều kiện chiến tranh ác liệt, xã nhà bị ném bom nhiều lần, có lần kéo dài gần nửa tháng nên sự lãnh đạo của ban quản lý tập trung nhiều vào công tác phòng tránh, công tác phục vụ giao thông vận tải, HTX lại hoạt động trong phạm vi quá rộng, nhiều đầu mối, vì vậy hạn chế nhiều đến việc chỉ đạo, đôn đốc các đội sản xuất thực hiện các chỉ tiêu, kế hoạch cày cấy, trồng trỉa, thu hoạch và phân phối sản phẩm. mặt khác, trình độ của cán bộ quản lý còn bị hạn chế, công tác quản lý còn yếu. Trong hoàn cảnh như vậy, tháng 12-1968, Đảng ủy họp quyết định chia HTX Đại Bình thành 2 HTX Thanh Bình và Đồng Hòa.

  • HTX Thanh Bình gồm 5 đội: 1, 2, 3, 4, 5;
  • HTX Đồng Hòa gồm 5 đội: 6, 7, 8, 9, 10.

          Hai HTX tổ chức Đại hội đại biểu xã viên đề ra chỉ tiêu, kế hoạch sản xuất lương thực thực phẩm đảm bảo mức ăn cho xã viên và hoàn thành nghĩa vụ đối với Nhà nước; xây dựng trại chăn nuôi bò, lợn tập thể, mở rộng các ngành nghề, thực hiện tốt công tác 3 khoán, xây dựng trụ sở làm việc, nhà kho, sân phơi cho HTX và các đội sản xuất.

         Đại hội xã viên đã bầu Ban quản lý như sau:

          - HTX Thanh Bình do đồng chí Nguyễn Hữu Ngôn làm Chủ nhiệm, đồng chí Nguyễn Khương làm Phó chủ nhiệm;

          - HTX Đồng Hòa do đồng chí Nguyễn Tuyến làm Chủ nhiệm, đồng chí Cao bát làm Phó chủ nhiệm.

          Để giải quyết kịp thời những khó khăn vướng mắc, Đảng ủy đã lãnh đạo 2 HTX kết hợp việc tuyên truyền phổ biến điều lệ HTX nông nghiệp với việc chấn chỉnh 3 khoán và quản lý ruộng đất. Nhờ đó, các HTX đã hoàn thành công tác kiểm kê, quyết toán đúng thời hạn, hạn chế những tiêu cực trong ăn chia phân phối, quản lý tài vụ…

         Bước sang năm 1969, Đảng ủy, Ủy ban, các Ban quản lý HTX triển khai thực hiện nhiệm vụ mà các đại hội xã viên đề ra.

         Trên dà phấn khởi trong điều kiện không có bom đạn, tuy chưa phải đã có hòa bình thật sự những công tác thi đua với không khí sôi nổi hẳn lên, các đội sản xuất đã xúc tiến việc sản xuất vụ chiêm xuân, tranh thủ cày cấy, trồng trỉa hết diện tích, áp dụng kỹ thuật canh tác mới như cấy dày, cấy thẳng hàng, làm phân xanh, bèo dâu, điền thanh, đẩy mạnh phong trào làm cỏ, sục bùn, chăm sóc lúa để có năng suất cao hơn các năm trước.

           HTX Thanh Bình đã xây dựng trụ sở làm việc, sân phơi, nhà kho ở xóm 3, lập trại chăn nuôi trâu bò ở Thung Đọt, lập trại chăn nuôi lợn, lò làm gạch ngói ở Cồn Rò, tổ chức trồng cây, trồng chè do các cụ phụ lão phụ trách ở Cồn Rò. Thành lập các đội chuyên ngành nghề như nghề mộc, nề để xây dựng nhà kho, sân phơi cho các đội sản xuất.

           HTX Đồng Hòa xây dựng trụ sở làm việc, nhà kho, sân phơi ở Phát lát (xóm 9), lập trại chăn nuôi chăn nuôi trâu bò ở Cơn Mít sau chuyển về Phát Lát, xây dựng lò gạch ngói ở Nhà Hảnh (xóm 9), tổ chức trồng cây, trồng chè do các cụ phụ lão phụ trách ở Cồn Ròm (xóm 6), xây dựng các đội chuyên nghề mộc, nề để xây dựng nhà kho, sân phơi cho các đội sản xuất.

           Ngoài sản xuất trên đồng ruộng đã có sẵn, xã đã phát động một phong trào khai hoang phục hóa các cồn bãi, ao đìa thành đất, thành ruộng để cày cấy thu nhập thêm sản phẩm, xã còn chủ trương cho xã viên lên đồi núi trồng sắn, trồng đậu ở các vùng Cơn Mít, Nhà Chàng, Chân Tiên, Thung Đọt, Khe Su… Kết quả, trong năm 1969, một dải đất đồi từ đồi núi trọc, cỏ cây hoang dại đã trở thành đồi sắn, đậu xanh tươi cho thu hoạch hàng tấn sắn, vừa dùng cho người vừa làm thức ăn cho gia súc.

           Các HTX huy động xã viên đào đắp tu sửa các bờ vùng, bờ thửa, mương máng thủy lợi nội đồng, trồng cây hai bên đường, ở các vùng đồi núi như Nhà Chàng, Lòi Nen, Đồng Mốc. Chỉ trong một thời gian ngắn, toàn xã đã trồng được trên 1 vạn cây.

           Đi đôi với việc đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, Đảng ủy cũng quan tâm lãnh đạo HTX tín dụng để huy động vốn phục vụ sản xuất, HTX mua bán khai thác nguồn hàng để giải quyết nhu cầu thiết yếu cho nhân dân. Đồng thời với việc triển khai đồng đều và liên tục các cuộc vận động chính trị, vận động sản xuất trong quần chúng nhân dân, Đảng bộ tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng Đảng bộ và chi bộ “4 tốt” bằng việc triển khai Nghị quyết ngày 31-1-1969 của Tỉnh ủy “Không ngừng nâng cao sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng ở nông thôn, bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ chính trị của Đảng trong tình hình mới” theo sự chỉ đạo của Huyện ủy Hương Sơn.

            Mặc dù từ tháng 11-1968 đến tháng 3-1972, đế quốc Mỹ buộc phải tạm ngừng ném bom đánh phá miền Bắc nước ta, nhưng chúng vẫn tăng cường trinh sát bằng máy bay U2, máy bay không người lái trên không phận miền Bắc nước ta, chúng còn tung biệt kích vào vùng biên giới, bờ biển, bắt bà con ngư dân ngoài khơi, dùng chiến tranh tâm lý và giao nhiệm vụ rồi thả cho về, chúng xúi dục bọn phản động tìm cách chống phá ta.

           Những tháng cuối năm 1969, ở phía tây huyện Hương Sơn, bọn phản động Lào cùng đế quốc Mỹ mở cuộc càn quét vùng biên giới Lào - Việt. Trước yêu cầu của nước bạn, chấp hành Chỉ thị của Quân ủy Trung ương, của Bộ tư lệnh Quân khu IV và Tỉnh đội Hà Tĩnh, đầu tháng 10-1969, một đội dân công Hương Sơn được cử tham gia phục vụ chiến đấu ở Bô Ly Khăm Xay, đánh bại chiến dịch Cù Kiệt của địch. Tiếp đó, các đơn vị dân công (trong đó có dân công Sơn Bình) lại được lệnh ở lại giúp bạn chuẩn bị chiến trường cho mùa khô tới.

            Vừa sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu bất kỳ lúc nào, ở đâu, trên địa bàn huyện hay trên đất bạn Lào, Đảng ủy tiếp tục lãnh đạo nhân dân vừa đẩy mạnh sản xuất, vừa giữ vững lực lượng sẵn sàng chiến đấu, tiếp tục làm tốt công tác tuyển quân, tuyển lao động để chi viện cho các mặt trận, đồng thời tăng cường giáo dục ý thức cảnh giác cho nhân dân.

           Trong lúc nhân dân Sơn Bình và cả nước đang tận dụng những ngày yên bình, không có khói lửa, đạn bom để tập trung khắc phục hậu quả chiến tranh, đẩy mạnh sản xuất thì ngày 02-9-1969, Bác Hồ muôn vàn kính yêu qua đời. Đó là một tổn thất vô cùng to lớn, nỗi đau vô hạn đối với toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Đảng ủy, Ủy ban, Mặt trận đã lập bàn thờ Người, cán bộ, đảng viên, nhân dân hàng ngày đến thắp hương viếng Người với tấm lòng thành kính và biết ơn vô hạn, mọi người đều ngậm ngùi rơi nước mắt khi nhìn lên bức ảnh Bác có vòng khăn tang. Trong 10 ngày để tang Bác, bà con được nghe đọc Lời Di chúc của Bác để lại, nhất là ngày 12-9-1969, ngày làm lễ truy điệu, đưa tang Bác, khi nghe đồng chí Lê Duẫn - Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng đọc điếu văn, tất cả mọi người không ai cầm được nước mắt vì xúc động.

           Biến đau thương thành hành động cách mạng, Tỉnh ủy Hà Tĩnh đã ra Nghị quyết đặc biệt phát động “phong trào 3-9”[26], đồng thời mở 3 cuộc vận động lớn: lao động sản xuất; tăng cường chế độ làm chủ tập thể; nâng cao chất lượng đảng viên, kết nạp “lớp đảng viên Hồ Chí Minh”. Dưới sự lãnh đạo của Huyện ủy, Đảng ủy xã Sơn Bình đã lãnh đạo đảng viên, nhân dân ‘học tập và làm theo Di chúc của Hồ Chủ tịch”, nhiệt tình và sôi nổi hưởng ứng các đợt thi đua và các cuộc vận động đã đưa lại kết quả tốt trên các mặt sản xuất, giao thông thủy lợi như khai mương phóng thủy từ Seo Vang đến Cửa Trộ, vụ lúa xuân đạt trên 30 tạ/ha vượt mức 20%, chỉ tiêu tuyển quân, đi dân công, đóng lương thực thực phẩm cho Nhà nước vượt chỉ tiêu. Sự nghiệp giáo dục, y tế đều phát triển khá, câu hò, bài ca lại được vang lên trong các buổi họp, ngày lễ…

         Với các thành tích trên, xã đã được Ủy ban hành chính huyện, Ủy ban hành chính tỉnh tặng giấy khen và Bằng khen. Vinh dự nhất là xã Sơn Bình đã được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Nhì.

          Bước sang năm 1970, tiếp theo là năm 1971, thực hiện quyết tâm của Tỉnh ủy, Huyện ủy, Đảng ủy xã Sơn Bình đã làm tròn nghĩa vụ hậu phương với tiền tuyến, sẵn sàng chiến đấu chống lại mọi âm mưu khiêu khích của địch mở rộng chiến tranh ra miền Bắc. Các HTX nông nghiệp đẩy mạnh sản xuất, xây dựng lực lượng dân quân du kích, chăm lo bồi dưỡng sức khỏe cho thanh niên, nhất là thanh niên thấp thước, nhẹ cân được cung cấp thêm lương thực thực phẩm để đủ điều kiện tòng quân nhằm vượt con số tuyển quân trong các đợt tiếp theo.

          Song song với công tác sản xuất và sẵn sàng chiến đấu, phục vụ chiến đấu, năm 1971 xã Sơn Bình thực hiện chỉ thị của Quân khu IV và Tỉnh ủy chuẩn bị đón Đoàn 70 là đoàn làm nhiệm vụ làm điều dưỡng cho anh em thương binh ở các chiến trường B,C,K về. Xã đã huy động nhân lực, vật liệu để cùng đoàn làm lán trại, nơi làm việc cho đoàn tại xóm 6, làm nhà ăn, nhà kho cho 10 đội đóng khắp xã, chuận bị nơi ăn ở cho thương binh, bệnh binh ở trong nhà dân. Công tác đón tiếp đợt này đến đợt khác, thường xuyên có 1.300 quân về điều trị, an dưỡng, có luc cao điểm lên đến 2000 quân. Đoàn 70 đến ở, làm việc suốt 3 năm từ 1971 đến hết năm 1972, đoàn chuyển sang đóng ở Khe Cò (Sơn Lễ).

          Khi Đoàn 70 chuyển sang Sơn Lễ, xã tiếp tục huy động người và vật liệu làm cho đoàn cán bộ 3 gian nhà gỗ và 21 gian nhà tình nghĩa cho anh em thương binh, bệnh binh ở. Với thành tích 3 năm đón tiếp thương binh Đoàn 70, xã Sơn Bình đã được đồng chí Đàm Quang Trung thay mặt Quân khu IV tặng 1 bức trướng có dòng chữ:

                           Nặng nghĩa với miền Nam

                           Tận tình với thương binh

                           Xây dựng hâu phương mạnh

   Tuy địch bị thất bại nặng nề ở cả 4 chiến trường, chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” đứng trước nguy cơ sụp đổ, địch tăng cường cho máy bay trinh sát vào không phận miền Bắc, thỉnh thoảng còn oanh kích lén vào các trục đường giao thông chiến lược thủy bộ và tung biệt kích từ Lào sang, từ biển vào.

   Ngày 31-1-1971, chiến dịch phản công Đường 9 - Nam Lào của ta mở màn thắng lợi, tin đó làm cho bà con rất vui mừng, phấn khởi, ai cũng hướng về chiến trường, hướng về các chiến sỹ ngoài mặt trận, các mẹ, các chị tổ chức các trạm đón tiếp bộ đội hành quân vào Nam và từ Nam ra Bắc ở tuyến đường từ Sơn Châu qua Sơn Bình tới Sơn Trà và ngược lại. Xã giao nhiệm vụ cho dân quân du kích với tư thế vừa sẵn sàng chiến đấu, vừa tranh thủ sản xuất, nhân dân vẫn tiếp tục tu sửa hầm hào, các lớp học vẫn học ở nơi sơ tán cũ có hầm hào bảo đảm, các lực lượng dân công đi vận tải tiếp tế vẫn tiếp tục đợt này qua đợt khác góp phần làm cho mạch máu giao thông Bắc - Nam thông suốt, hàng hóa, khí tài đạn dược được kịp thời vào đến nơi đến chốn. Đặc biệt trong thời gian này,HTX nông nghiệp Thanh Bình đã huy động xã viên đào một con mương từ khe Lòng Nước để lấy nước ra đập Tràng lầy dài hơn 3km qua chân núi Phụ Nây rộng 0,5m, sâu có nơi tới 1m. Khi đề ra chủ trương này, nhiều người cho rằng không thể thực hiện được nhưng nhờ sự quyết tâm lãnh đạo của chi bộ và sự chi viện của HTX nông nghiệp Đồng Hòa nên đã thành công tốt đẹp. HTX Đồng Hòa cũng huy động xã viên đắp một con dường từ Cồn Rờm ra giáp xã Sơn Trà dài hơn 500 m, đó là con đường nội đồng tạo điều kiện đi lại dễ dàng nhất là vào mùa gặt hái.

  Tiếp theo thắng lợi của Mặt trân Đường 9 - Nam Lào, ở miền Nam ngày càng đánh lớn và giành được nhiều thắng lợi. Đế quốc Mỹ và bọn tay sai tỏ ra lúng túng về chiến lược, chúng phải chuyển sang thế phòng ngự, bị động. Trước tình hình đó, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã quyết định mở cuộc Tiến công chiến lược 1972 trên toàn miền Nam nhằm thực hiện Di chúc cúa Bác Hồ “Đánh cho Mỹ cút”. Để góp sức vào cuộc tiến công đó, nhân dân Sơn Bình đã hăng hái đẩy mạnh sản xuất, quyết tâm đưa năng suất cây trồng, vật nuôi vượt chỉ tiêu trên giao. Thanh niên hăng hái tòng quân vượt năm 1971 tới 20 người, chị em phụ nữ sẵn sàng đi dân công phục vụ tiền tuyến, sửa chữa đường giao thông…

   Ngày 30-3-1972, cuộc tiến công chiến lược mở màn, phong tuyến bắc Quảng Trị, nơi phòng thủ kiên cố nhất của địch bị quân ta chọc thủng, các mặt trận khác trên khắp miền Nam đều nổi dậy phá nhiều “Ấp chiến lược”, giải phong được nhiều vùng đất đai rộng lớn. Thắng lợi đó của quân dân ta càng làm cho địch hoảng sợ.

   Trước nguy cơ sụp đổ của chính quyền Sài Gòn, đế quốc Mỹ vội vàng tuyên bố ném bom miền Bắc vào ngày 6-4-1972. Lần này, đế quốc Mỹ đã huy động lực lượng không quân, hải quân tối đa để đánh phá miền Bắc, chúng dùng cả máy bay chiến lược B52, F101, máy bay cánh cụp cánh xòe, máy bay bắn tia la - de. Máy bay địch bắn phá liên tục cả ngày lẫn đêm, thả pháo sáng dọc sông Ngàn Phố, Ngàn Sâu, dọc quốc lộ 8, ngay trên vùng trời Sơn Bình nhiều đêm sáng như ban ngày. Địch đã gây nhiều thiệt hại lớn cho ta, mạch máu giao thông nhiều lúc bị tắc nghẽn, đường sá, cầu cống ta mới khôi phục lại bị địch đánh hư hỏng nặng.

   Vào lúc 11 giờ trưa ngày 7-6-1972, địch ném bom bi mẹ, bom bi con, bom phá vào các xóm 2, 3, 4 làm chết 6 người, bị thương 3 người và nhiều nhà cửa bị hư hỏng nặng. Sau trận ném bom này, một số nhân dân tỏ ra hoang mang lo sợ, bỏ cả sản xuất chạy ra đồng ra bãi làm hầm để trú ẩn cả ngày, đêm đến mới dám về nhà. Tuy vậy, Đảng bộ đã kịp thời làm công tác tư tưởng để ổn định tình hình, bình tĩnh bước vào mọi hoạt động tiếp theo, những tư tưởng sợ địch, sợ máy bay B52 được phân tích, phê phán, khắc phục.

   Tuy bị đánh phá ác liệt nhưng lực lượng dân quân vẫn bám trận địa bắn máy bay, vẫn tuần tra canh gác, lực lượng ứng cứu giao thông vẫn kịp thời làm nhiệm vụ, địch phá ta sửa, ta đắp, địch lại phá ta lại đắp sửa lại đảm bảo giao thông luôn luôn thông suốt.

  Ngày 21-4-1972, xã đã tổ chức thêm 1 trung đội cơ động bắn máy bay bằng súng trường, 2 tổ cứu thương, 2 tổ đào bới cấp cứu, 2 tổ liên lạc cho 2 khu vực, chuẩn bị dụng cụ cứu thương, cấp cứu, tổ chức xong tiến hành huấn luyện, làm thử để rút kinh nghiệm, nhờ vậy mà xử trí kịp thời khi bị địch ném bom bắn phá vào xã nhà.

  Do hoàn cảnh chiến tranh nên nhiệm kỳ (1968-1970) Đảng bộ phải kéo dài đến tháng 9-1972.

  Cán bộ chủ chốt trong thời gian từ 1970-1972 được phân công như sau:

  • Nguyễn Xá: Bí thư Đảng ủy;
  • Trần Đức: trực Đảng;
  • Nguyễn Thị Hưng: Chủ tịch Ủy ban hành chính xã;
  • Lê Quán: Xã đội trưởng;
  • Nguyễn Thắng Lợi: Trưởng công an xã;
  • Phạm Thị Huế: Phó chủ tịch Ủy ban hành chính xã;
  • Nguyễn Thuần: Bí thư Nông hội xã;
  • Lê Thị Lan: Bí thư Phụ nữ xã;
  • Thái Thị Nhị: Bí thư Đoàn thanh niên;
  • Nguyễn Thuyết: Chủ nhiệm HTX.

            Tháng 9-1972, Đảng bộ xã Sơn Bình tổ chức Đại hội khóa VI (nhiệm kỳ 1972-1974) tại.........… Đại hội diễn ra trong lúc cuộc chiến đấu của quân dân hai miền Bắc - Nam đã giành được nhiều thắng lợi to lớn, những thủ đoạn đánh phá của đế quốc Mỹ đối với miền Bắc vẫn vô cùng ác liệt.

            Đại hội đã tiến hành kiểm điểm và đánh giá tình hình thực hiện nhiệm vụ trong 4 năm qua. Tuy còn có khuyết điểm, có mặt yếu kém nhưng lại là những năm chiến tranh ác liệt, mọi nhiệm vụ đều phải hoàn thành và hoàn thành vượt mức. Đảng bộ đã lãnh đạo nhân dân vượt qua mọi khó khăn gian khổ và lập được nhiều thành tích trong sản xuất và chiến đấu, đảm bảo mọi mặt đời sống cho nhân dân, làm tròn nghĩa vụ đối với Nhà nước, được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Nhì.

            Về phương hướng, nhiệm vụ của nhiệm kỳ tới, Đại hội xác định: dù khó khăn gian khổ đến mấy, Đảng bộ cũng phải quyết tâm lãnh đạo nhân dân thực hiện tốt mọi nhiệm vụ, tập trung chủ yếu vào:

            - Củng cố chính quyền, củng cố các tổ chức quần chúng, các ban quản lý HTX để làm tốt công tác sản xuất năm 1972-1973 và các năm tiếp theo. Đảm bảo an toàn đời sống cho nhân dân, thực hiện tốt các công tác văn hóa, xã hội;

            - Xây dựng và củng cố lực lượng chiến đấu, luôn luôn đề cao cảnh giác, bảo vệ trật tự trị an, phục vụ nhân dân kịp thời khi bị địch ném bom bắn phá, chi viện kịp thời, đầy đủ về người và lương thực thực phẩm cho chiến trường;

            - Đối với cán bộ, đảng viên, phải tiếp tục học tập các chủ trương, đường lối và các chính sách của Đảng và Nhà nước để nâng cao nhận thức mà xác định vị trí của mình trong mọi nhiệm vụ nặng nề khó khăn gian khổ, luôn gương mẫu đi đầu, phải xông lên phía trước để cùng thanh niên, xã viên hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.

            Đại hội đã bầu Ban Chấp hành mới gồm 13 ủy viên, đồng chí Nguyễn Quang được bầu giữ chức vụ Bí thư Đảng ủy; đồng chí Nguyễn Quốc Trị - Thường vụ, phụ trách trực Đảng; đồng chí Lê Triêm - Thường vụ, phụ trách chính quyền.

            Thực hiện Nghị quyết của Đại hội, chính quyền đã tổ chức bầu cử HĐND và Ủy ban hành chính, đồng chí Lê Triêm được bầu giữ chức vụ Chủ tịch Ủy ban hành chính xã, đồng chí Nguyễn Thắng Lợi giữ chức vụ Phó chủ tịch Ủy ban hành chính xã. Các đoàn thể, các HTX cũng tiến hành đại hội đại biểu để bầu ban chấp hành, ban quản lý. Các đại biểu dự đại hội đều đánh giá mặt mạnh, mặt yếu và hoạt động của tổ chức mình trong thời gian qua và căn cứ vào nội dung nghị quyết của Đại hội Đảng bộ mà đề ra nhiệm vụ cụ thể.

            Các đoàn thể, các HTX đều phát động một phong tào thi đua yêu nước, nhờ vậy các phong trào thi đua “3 sẵn sàng”, “3 đảm đang”, “2 giỏi”, “4 quyết tâm” đều bùng lên sôi nổi, thể hiện trên các mặt trận sản xuất, quân sự, chính trị và văn hóa xã hội đều vượt trội.

            Cán bộ chủ chốt trong nhiệm kỳ này được phân công như sau:

  • Nguyễn Quang: Bí thư Đảng ủy;
  • Nguyễn Quốc Trị: Thường vụ, trực Đảng;
  • Lê Triêm: Thường vụ, Chủ tịch Ủy ban hành chính;
  • Nguyễn Thắng Lợi: Phó chủ tịch Ủy ban hành chính xã;
  • Lê Thị Lan: trực Ủy ban;
  • Phạm Thị Huế: ủy viên Ủy ban, phụ trách tài mậu;
  • Lê Quán: Xã đội trưởng;
  • Lê Trọng Thủy: Trưởng công an xã;
  • Phan Thị Oanh: Hội trưởng Hội phụ nữ;
  • Nguyễn Đình Nhiên: Bí thư Đoàn thanh niên;
  • Nguyễn Tuyến: Chủ nhiệm HTX nông nghiệp Đồng Hòa;
  • Nguyễn Hữu Ngôn: Chủ nhiệm HTX nông nghiệp Thanh Bình;
  • Nguyễn Hoàn: Chủ nhiệm HTX mua bán.

          Từ ngày 22-10-1972, đế quốc Mỹ lại thực hiện chiến lược ném bom hạn chế, điên cuồng trút bom đạn tập trung từ vĩ tuyến 20 trở vào hòng cố gắng một lần nữa cắt đứt con đường chí viện của miền Bắc cho quân dân miền Nam. Các loại máy bay, tàu chiến của Mỹ tập trung trút bom đạn vào khu IV, không ngày nào, đêm nào là không có máy bay địch bay qua xã nhà để ném bom đập Choi, cầu Nầm và thả bom bừa bãi vào xã Sơn Bình.

          Giặc Mỹ đánh phá ác liệt, chúng đã gây nhiều tổn thất to lớn cho nhân dân ta nhưng với tinh thần dũng cảm và quyết tâm hơn bao giờ hết, quân dân ta vẫn đảm bảo giao thông thông suốt cho xe chở lương thực thực phẩm, súng đạn kịp thời cho tiền tuyến miền Nam. Trong khi đó ở chiến trường miền Nam quân và dan ta vẫn tiếp tục tiến công và giành nhiều thắng lợi, chính quyền Sài Gòn không đối phó nổi.

          Bị thất bại trong chiến lược ném bom hạn chế từ vĩ tuyến 20 trở vào, đế quốc Mỹ phản bội cam kết, liều lĩnh tập trung không quân đánh phá Hà Nội, Hải Phòng và các địa phương khác ở miền Bắc. Trong 12 ngày đêm cuối năm 1972, với trận “Điện Biên Phủ trên không”, quân dân Thủ đô Hà Nội đã đập tan cuộc tập kích chiến lược bằng không quân của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải xuống thàng chiến tranh và cuối cùng phảu ký Hiệp định Pari (ngày 21-7-1973) chấm dứt vô điều kiện đánh phá miền Bắc và rút hết quân đội Mỹ khỏi miền Nam Việt Nam.

           Đó là thất bại chưa từng có trong lịch sử tiến hành các cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ đồng thời là thắng lợi vẻ vang của quân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Quân dân và Đảng bộ Hương Sơn nói chung, Sơn Bình nói riêng rất tự hào đã góp phần xứng đáng vào thắng lợi vĩ đại ấy của dân tộc.

           3. Khắc phục hậu quả chiến tranh, đẩy mạnh phong tào mọi mặt và dốc sức chi viện tiền tuyến giành thắng lợi hoàn toàn (1973 - 1975)

           Từ sau Hiệp định Pari được ký kết (21-7-1973), miền Bắc nước ta bước vào thời kỳ xây dựng trong hòa bình. Tuy vậy, đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai không bao giời cam tâm từ bỏ âm mưu phá hoại nền độc lập, tự do của dân tộc ta. Ngày 28-1-1973, Trung ương Đảng ra lời kêu gọi nhân dân cả nước “tăng cường đoàn kết, đề cao cảnh giác, củng cố những thắng lợi đã giành được, hoàn thành độc lập dân chủ ở miền Nam, tiến tới hòa bình thống nhất nước nhà”.

            Hưởng ứng lời kêu gọi của Trung ương Đảng, Đảng ủy xã Sơn Bình tổ chức Hội nghị mở rộng gồm đảng viên và cán bộ các tổ chức đoàn thể. Một mặt, để phổ biến thắng lợi và quán triệt nhiệm vụ mới, phát động phong trào thi đua mới. Mặt khác, phân tích để cán bộ, đảng viên thấy được âm mưu mới của đế quốc Mỹ là sau Hiệp định Pari chúng vẫn tiếp tục viện trợ quân sự, kinh tế cho chính quyền Sài Gòn. Trong khi chính quyền Sài Gòn ngang nhiên phá hoại Hiệp định Pari, chúng huy động gần như toàn bộ lực lượng tiến hành chiến dịch “tràn ngập lãnh thổ”, liên tiếp mở những cuộc hành quân “bình định - lấn chiếm” vùng giải phóng của ta, gây nhiều tội ác với đồng bào miền Nam.

           Bước vào thời kỳ cách mạng mới, Đảng bộ và nhân dân Sơn Bình có nhiều thuận lợi mới. Sau bao năm chiến tranh ác liệt và gian khổ giờ đây hòa bình đã được lập lại. Đảng bộ và nhân dân Sơn Bình phấn khởi trước những thắng lợi đã giành được. Xã đã xây dựng được một số nhân tố mới trong công cuộc phát triển kinh tế  - văn hóa. Nhưng khó khăn thử thách vẫn còn nhiều. Nền sản xuất của xã chủ yếu là sản xuất nông nghiệp lạc hậu, phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên. Đời sống nhân dân còn thiếu thốn về mọi mặt.

           Sau Hội nghị mở rộng của Đảng ủy, một luồng không khí hồ hởi, yên tâm, ai nấy đều hăng hái thi đua, các HTX nông nghiệp động viên xã viên bám sát đồng ruộng chăm sóc lúa đông xuân, thu hoạch mía làm mật làm đường, thu hoạch khoai lang vụ đông, tranh thủ trỉa lạc, ngô, đậu, trồng sắn, khoai lang xuân hè, HTX tín dụng huy động vốn, HTX mua bán lo cung ứng hàng hóa để phục vụ sản xuất và tiêu dùng của nhân dân. Các ngành như y tế tiến hành tu bổ lại trạm xã để làm nơi khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, các trường cấp I, cấp II củng cố, sửa chữa lại cơ sở vật chất trường lớp để cho học sinh quay trở lại học nơi trường cũ trước sơ tán. Các cơ quan Đảng ủy, Ủy ban hành chính dọn trở lại làm việc tại trụ sở. Và cũng từ đây, các cơ quan, trường học của huyện, tỉnh bấy lâu sơ tán về Sơn Bình nay lần lượt chuyển về địa điểm cũ để tiếp tục làm việc, chỉnh đốn lại nề nếp, chuyển mọi công tác từ thời chiến sang thời bình, làm thêm, làm bù những công việc trong chiến tranh dồn lại.

           Đảng ủy, Ủy ban hành chính, công an, xã đội nắm lại lực lượng dân quân, lực lượng dự nhiệm để tổ chức biên chế lại cho phù hợp với yêu cầu sản xuất và sẵn sàng chiến đấu, xã chỉ để lại một trung đội cơ động làm công tác tuần tra canh gác, còn lại làm nhiệm vụ tu sửa đường sá, vận chuyển hàng hóa, đạn dược vào miền Nam, sang nước bạn Lào theo yêu cầu của cấp trên. Xã đội tiến hành huấn luyện quân sự cho dan quân, thanh niên để khi nhập ngũ là chiến đấu được ngay. Ngoài ra xã còn huy động một lực lượng nhỏ cùng bộ đội đường ống đặt ống dẫn dầu qua bàu Hàn đến dốc núi Nầm lên biên giới.

           Với quyết tâm lãnh đạo của Đảng ủy và sự nỗ lực phấn đấu của nhân dân nên vụ đông xuân 1972-1973 xã được mùa lớn, vượt mức so với các năm trước, nhân dân rất phấn khởi, đời sống được cải thiện thêm một bước, từ đó các mặt công tác trị an, tuyển quân, văn hóa văn nghệ, làm nghĩa vụ đối với Nhà nước đều hoàn thành.

           Từ ngày 26 đến ngày 30-4-1973, Đảng bộ huyện Hương Sơn tiến hành Đại hội lần thứ XIV ra lời kêu gọi “Phất cao cờ tháng Tám chống nghèo nàn, đánh tan giặc dốt”.

           Những năm 1973, 1974 là thời gian hòa bình, trước sự phát triển của phong trào cách mạng, thực hiện nghị quyết của Tỉnh ủy, Huyện ủy, Đảng ủy Sơn Bình đã đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng, nâng cao chất lượng đảng viên, nâng cao sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của Đảng. Đảng ủy tranh thủ mọi mặt lãnh đạo chuyển mạnh, chuyển nhanh sang thực hiện nhiệm vụ trong thời kỳ mới là: khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục và đẩy mạnh phát triển sản xuất, củng cố xây dựng “ba ngọn cờ hồng” để đưa nền kinh tế xã nhà từng bước tiến theo con đường XHCN, tổ chức tốt đời sống vật chất, văn hóa, văn nghệ cho nhân dân.

            Các HTX nông nghiệp đã hướng cho xã viên tranh thủ mọi thuận lợi, ra quân đắp đường nội đồng, làm thủy lợi, cày cất theo hướng chuyên canh, thâm canh, phát triển kinh tế gia đình, khai hoang, phục hóa...

           Lúc này, ở miền Nam tuy địch mở nhiều cuộc càn quét lớn nhưng trước sức mạnh của quân giải phóng, tình hình có sự chuyển biến mau lẹ có lợi cho cách mạng đòi hỏi miền Bắc phải nhanh chóng chuẩn bị mọi mặt để chi viện kịp thời cho chiến trường đón thời cơ giành thắng lợi quyết định. Để góp phần làm tròn nghĩa vụ hậu phương với tiền tuyến lớn miền Nam, Đảng ủy, Ủy ban hành chính đã xác định: Trong năm 1974, ngoài việc đẩy mạnh sản xuất, xây dựng HTX thì công tác nắm lại lực lượng quân sự, tổ chức huấn luyện dân quân, tổ chức tuyển quân là nhiệm vụ trung tâm thường xuyên liên tục. Công tác làm giao thông, vận chuyển hàng hóa, lương thực thực phẩm, vũ khí, đạn dược, thuốc men... cho tiền tuyến miền Nam và nước bạn Lào cũng đòi hỏi một cách khẩn trương và kịp thời. Công tác hậu phương lúc này cũng được Đảng ủy đặt ra rất cao là phải bồi dưỡng sức dân, chăm sóc các gia đình liệt sỹ, thương binh, các gia đình có con em đang chiến đấu trên các chiến trường như thăm hỏi, động viên giúp đỡ khi gặp khó khăn, điều hòa thêm lương thực cho đủ mức ăn theo bình quân chung...

    Ngày 3-9-1974, Đảng bộ xã Sơn Bình tổ chức Đại hội khóa VII (nhiệm kỳ 1974-1976) tại…....... Đại hội lần này tổ chức hai vòng:

   Vòng 1 diễn ra từ ngày 3 đến ngày 10-9-1974 với các nội dung sau:

    - Học tập Nghị quyết 22 và Nghị quyết 228 của Trung ương Đảng;

          - Tổng kết đánh giá tình hình lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ trong nhiệm kỳ (1972-1974);

- Bầu đại biểu đi dự Đại hội khóa XV của huyện Đảng bộ

          Đại hội lần này có đồng chí Thường vụ Huyện ủy về tham dự và chỉ đạo Đại hội đồng thời được phân bổ ứng cử đại biểu tại Đảng bộ xã Sơn Bình.

          Sau 6 ngày học tập và thảo luận 2 nghị quyết trên của Trung ương, Đại hội đã kiểm điểm đánh giá sâu sắc tình hình lãnh đạo nhân dân xã Sơn Bình thực hiện nhiệm vụ trong nhiệm kỳ (1972-1974): trong 2 năm qua Đảng bộ đã lãnh đạo nhân dân xã nhà hoàn thành tốt nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, an ninh quốc phòng, qua các phong trào xuất hiện nhiều nhân tố mới như xác định được phương hướng làm thủy lợi nội đồng, du nhập giống lúa xuân vào sản xuất thắng lợi. Tuy vậy, phong trào của xã Sơn Bình còn nhiều mặt yếu nhất là sản xuất nông nghiệp còn bấp bênh, đang trong tình trạng làm chưa đủ ăn, thu chưa bù được chi, Đảng bộ chưa thực sự vững mạnh, ý chí chiến đấu, tiến công trên mặt trận sản xuất chưa cao.

          Trên cơ sở phân tích, đánh giá nhiệm vụ của năm 1975 là rất nặng nề và cấp bách đòi hỏi mỗi cán bộ, mỗi đảng viên phải có quyết tâm cao, nhạy bén trước tình hình để lãnh đạo nhân dân thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ.

          Ngày 10-9-1974, Đại hội tiến hành bầu đại biểu đi dự Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XV. Kết quả đã bầu được 5 đồng chí, gồm:

  • Đồng chí Nguyễn Đình Lâm: Thường vụ Huyện ủy;
  • Đồng chí Nguyễn Quang: Bí thư Đảng ủy;
  • Đồng chí Lê Triêm: Chủ tịch Ủy ban hành chính xã;
  • Đồng chí Trần Thị Lý: Chấp hành phụ nữ;
  • Đồng chí Nguyễn Khương: Phó chủ nhiệm HTX nông nghiệp.

          Vòng 2 diễn ra trong 2 ngày 16 và 17-9-1974. Đại hội đã nghe đoàn đại biểu báo cáo kết quả và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XV. Đại hội cũng đã thảo luận, đề ra nhiệm vụ trong nhiệm kỳ tới tập trung chủ yếu vào các công tác sau:

           - Từng bước xây dựng tổ chức Đảng vững mạnh, lấy việc nâng cao ý chí cách mạng, tinh thần làm chủ tập thể mà tạo nên khí thế cách mạng tiến công trong cách làm ăn, tiến hành đồng thời 3 cuộc cách mạng, đạt 3 mục tiêu trong nông nghiệp, quyết tâm tự tuc được lương thực, giải quyết tốt vấn đề thực phẩm, mở rộng sản xuất và thâm canh màu, đẩy mạnh trồng lạc, trồng mía;

           - Động viên mọi lực lượng làm tốt công tác tuyển quân, huy động lực lượng phục vụ tiền tuyến, lực lượng xây dựng quê hương (Đoàn 202), làm tốt nghĩa vụ lương thực thực phẩm đối với tiền tuyến. Tất cả nam từ 18 đến 45 tuổi, nữ từ 18 đến 30 tuổi được sắp xếp thành đội ngũ đều phải luyện tập quân sự. Đảng viên trong lứa tuổi phải là người gương mẫu tập luyện và đạt chất lượng cao hơn. Xã quyết định lấy lực lượng dân quân tự vệ làm đơn vị xung kích trong mọi công tác;

            - Về kế hoạch sản xuất vụ đông xuân 1974-1975, Đại hội nhất trí chuẩn bị đưa từ sản xuất nhoe lên sản xuất lớn; tập trung xây dựng HTX nông nghiệp bằng cách liên đội sản xuất từ 17 đội chuyển thành 10 đội cho phù hợp với từng khu vực trước khi thực hiện kế hoạch vụ đông xuân. Phải đưa năng suất cây trồng, vật nuôi vượt 10% so với năm 1974; đàn trâu bò cày cấy và hậu bị 480 con; đàn lợn của trại chăn nuôi tập thể và hộ gia đình 1.600 con; quản lý hết đất đai mà các hộ đã khai hoang phục hóa để chia lại cho các đội trồng sắn, trồng khoai các loại, vận động các gia đình lên đồi cao trồng thêm sắn; tập trung chỉ đạo các đội chuyên nhất là lò gạch, tổ mộc, tổ nề, quản lý hết ngành nghề để đi vào làm ăn tập thể; tu bổ lại bờ vùng, bờ thửa, sửa sang lại đường sá, nhất là các con mương nội đồng, đảm bảo giữ nước tại chỗ;

            - Về văn hóa - xã hội: tổ chức xây dựng trường cấp II, củng cố các nhà trẻ, nhà mẫu giáo mỗi khu vực một trường; tổ chức cưới hỏi và các tục lệ theo đời sống mới; mỗi HTX tổ chức một đội văn nghệ và một đội bóng đá; tiến hành xây dựng trụ sở làm việc của Đảng ủy, Ủy ban; tổ chức các lớp học bổ túc văn hóa, học về kỹ thuật chuyên môn…; vận động củng cố xây dựng lại 3 công trình, phát động một phong trào toàn dân thực hiện nếp sống mới.

            Đại hội tiến hành bầu Ban Chấp hành gồm 13 ủy viên, đồng chí Nguyễn Quang được bầu giữ chức vụ Bí thư Đảng ủy; đồng chí Trần Đức phụ trách trực Đảng; đồng chí Lê Triêm giữ chức vụ Phó bí thư, Chủ tịch Ủy ban hành chính.

            Cán bộ chủ chốt trong nhiệm kỳ được phân công như sau:

  • Nguyễn Quang: Bí thư Đảng ủy;
  • Lê Triêm: Chủ tịch Ủy ban hành chính xã;
  • Trần Đức: trực Đảng;
  • Nguyễn Thắng Lợi: Phó chủ tịch Ủy ban hành chính;
  • Nguyễn Thị Hưng: Ủy viên Ủy ban phụ trách tài mậu;
  • Lê Trọng thủy: Trưởng công an xã;
  • Phan Thị Oanh: Hội trưởng Hội phụ nữ;
  • Lê Quán: Xã đội trưởng;
  • Nguyễn Nhiên: Bí thư Đoàn xã;
  • Nguyễn Khương: Phó chủ nhiệm HTX nông nghiệp;
  • Nguyễn Hoàn: Chủ nhiệm HTX mua bán;
  • Nguyễn Thịnh: Trưởng ban kiểm soát;
  • Nguyễn Lục: Đội trưởng đội 6.

          Sau thành công của Đại hội Đảng bộ xã, Đảng ủy tiến hành chỉ đạo các chi bộ thành lập các tổ Đảng mới theo liên đội và bầu lại chi ủy mới. Các HTX và các tổ chức quần chúng đều mở đại hội để học tập, quán triệt Nghị quyết 22, Nghi quyết 228 và học điều lệ mới của HTX nông nghiệp. Các đại hội đều đánh giá kết quả hoạt động của tổ chức mình thời gian qua và căn cứ vào Nghị quyết cúa Đại hội Đảng bộ để đề ra nhiệm vụ trong thời gian tới.

          Trên đà phấn khởi và tin tưởng của Đảng bộ và nhân dân, Đảng ủy đã phát động trong nhân dân một phong trào thi đua mới do Tỉnh ủy đề ra: “Tất cả vì miền Nam ruột thịt, tất cả cho tiền tuyến lớn, dồn sức cho miền Nam đánh thắng”.

          Hưởng ứng đợt thi đua mới, toàn dân xã Sơn Bình đã tham gia học tập và nhất trí với chương trình đại hội các đoàn thể, tổ chức, HTX đã đề ra. Nam nữ thanh niên hăng hái đăng ký tòng quân ra mặt trận, lực lượng trung niên đều có quyết tâm đi bất cứ nơi đâu, làm bất cứ việc gì mà cấp trên yêu cầu dù có khó khăn gian khổ đến mấy. Phong trào tập luyện của dân quân du kích cũng được thực hiện tốt. Nhờ vậy, đợt giao quân đầu năm 1975 có 75 người vượt các năm trước đó.

          Trong các đợt tuyển quân, giao quân, xã tổ chức rất rầm rộ, đưa đón chu đáo, tổ chức liên hoan, tặng vật kỷ niệm. Ngày giao quân, bà con thân thích, anh em thanh niên tiễn đưa đến nơi nhận quân, và cũng từ đây các đợt giao quân trở thành ngày truyền thống tổ chức tòng quân nhập ngũ của thanh niên trong xã.

          Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ đề ra cùng với sự chỉ đạo của Ủy ban hành chính xã, các ban quản lý HTX nông nghiệp, xã viên càng có quyết tâm cao trong phong trào sản xuất, đưa các giống cây trồng, vật nuôi đảm bảo theo kế hoạch đề ra, áp dụng khoa học - kỹ thuật vào sản xuất, nhất là làm phân bón như nuôi bèo hoa dâu, lấy đất bùn ao hồ ủ phân xanh. HTX nông nghiệp tiến hành quản lý các loại đất mà trước đây đã khai hoang, phục hóa, đất vườn còn lại chia cho các đội để giao cho xã viên sản xuất. Tiến hành đắp bờ vùng, bờ thửa đảm bảo giữ nước tại chỗ, cấy dày, cấy sâu, chăm bón theo sự hướng dẫn của cán bộ kỹ thuật và có sự kiểm tra sát sao nên đạt kết quả tốt.

          Từ sau Hiệp định Pari được ký kết (27-1-1973), trước sự phát triển của phong trào cách mạng, thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Tỉnh ủy, Huyện ủy, Đảng bộ xã Sơn Bình đã đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng, nâng cao chất lượng đảng viên, nâng cao sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của Đảng.

          Dưới ánh sáng của Chỉ thị 192 của Ban Bí thư và Nghị Quyết 195 về việc “tiếp tục thực hiện cuộc vận động nâng cao chất lượng đảng viên, kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những người không đủ tư cách” và Nghị quyết 225 về cuộc vận động “nâng cao chất lượng đảng viên” của Bộ Chính trị, Đảng ủy xã đã triển khai học tập sâu rộng trong toàn Đảng bộ. Đây là một cuộc kiểm điểm nghiêm túc để rà xét lại tư cách đảng viên trong thời kỳ kháng chiến.

          Ngoài việc học tập trình độ được nâng lên, nội lực được đoàn kết, tinh thần đấu tranh góp ý được mạnh giạn thẳng thắn, kết hợp với việc báo công, bình công với nhân dân, đã phân loại Đảng viên đúng thực chất. Kết quả phân loại cuối năm 1974: số đảng viên khá 14%; đảng viên đạt yêu cầu 51%; đảng viên yếu kém 35%.

          Bước sang năm 1975, toàn Đảng bộ được tổ chức học tập, quán triệt Nghị quyết 23 của Trung ương Đảng về “tăng cường sự lãnh đạo và nâng cao sức chiến đấu của Đảng”.

          Qua việc tổ chức các đợt học tập các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương Đảng về xây dựng và chỉnh đốn tổ chức Đảng một cách sâu rộng từ trên xuống dưới, đưa những người không đủ tư cách ra khỏi Đảng và kết nạp thêm những đảng viên trưởng thành từ trong phong trào cách mạng đang phát triển mạnh mẽ, Đảng bộ đã lớn mạnh lên rất nhiều. Do vậy, Đảng bộ đã đảm đương được những nhiệm vụ công tác nặng nề trước yêu cầu cấp bách, to lớn của cách mạng, có những mặt đạt thành tích xuất sắc như công tác tuyển quân, chi viện tiền tuyến trong giai đoạn quyết liệt nhất để giải phóng hoàn toàn miền Nam.

           Giữa lúc nhân dân miền Bắc đang gặt hái được nhiều thành quả trong công cuộc khôi phục, phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội và chi viện sức người sức của cho miền Nam thì ngày 30-4-1975, cuộc Tổng tấn công và nổi dậy mùa xuân 1975 với đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử toàn thắng, quân và dân ta đã đánh bại đế quốc Mỹ, lật nhào chế độ tay sai, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta thắng lợi vẻ vang, đánh dấu một mốc son chói lọi trong trang sử chống ngoại xâm của dân tộc. Đảng bộ và nhân dân Sơn Bình vinh dự và tự hào có sự đóng góp lớn lao của mình vào thắng lợi vĩ đại của dân tộc.

Trong suốt thời kỳ chống Mỹ cứu nước, lớp lớp người con của quê hương Sơn Bình đã có nhiều đóng góp tiêu biểu trong phát triển sản xuất cũng như anh dũng trong chiến đấu. Xuất hiện nhiều tấm gương tiêu biểu trong phong trào Hợp tác hóa. Đó là hình ảnh anh chủ nhiệm Nguyễn Tuyến đêm không ngủ vì lo ruộng cạn, thương cho dân bữa đói, bữa no, các cụ ông, cụ bà hai làng Yên Đồng, Bảo Thịnh đã có công lớn trong việc đưa nước đập Hau Hau về tưới mát cánh đồng và được sự hỗ trợ đắc lực từ đồng chí Quỳnh cán bộ thủy lợi huyện thời đó và có rất nhiều tấm gương lao động tiêu biểu cống hiến, trưởng thành từ phong trào hợp tác hóa như cụ Nguyễn Thế Mạnh, cụ Nguyễn Đình Nghị, cụ Nguyễn Chuyết, Nguyễn Khắc Cận; Nguyễn Sỹ Thiện... sau này đã được điều động lên làm cán bộ các ngành cấp huyện. Và để có được một Sơn Bình anh hùng đã có biết bao thế hệ xung phong lên đường làm nhiệm vụ, 565 người con ưu tú tình nguyện tòng quân vào quân đội, 672 người tham gia dân quân trực chiến; 203 dân công hỏa tuyến, 73 người, thanh niên xung phong. Trong tổng số người tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Công lao to lớn của Đảng bộ nhân dân Sơn Bình góp sức cùng cả nước làm nên  đại thắng mùa xuân 1975 mà kết thúc bằng Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đất nước ta hoàn toàn độc lập, nhân dân ta hoàn toàn được tự do. Cả nước reo hò trong chiến thắng nhưng có những nỗi đau thầm lặng và niềm vui không thật trọn vẹn khi có 145 người con của quê hương đã ra đi mãi mãi không về, 153 anh chị  để lại một phần xương máu của mình trên các chiến trường các anh các chị mang trên mình những căn bệnh hoặc di chứng của chiến tranh; Trong số đó có 5 người thương tật trên 81%; Có 129 bà mẹ mỏi mắt chờ con trong đó có  3 bà mẹ chỉ có 1 con duy nhất cũng đã hy sinh vì tổ quốc; một bà mẹ hy sinh 3 người con có 14 bà mẹ hy sinh 2 con 1 bà mẹ hy sinh chồng và con, trong số 145 liệt sỹ, có trên 130 anh chị chưa lập gia đình, các anh các chị ra đi bộ đội, Thanh niên xung phong lúc còn rất trẻ, các anh các chị đã anh dung hy sinh cả tuổi thanh xuân vì Độc lập của tổ quốc vì hạnh phúc của thần dân trăm họ.

Xã còn đóng góp hàng chục tấn lương thực, thực phẩm để chi viện cho các chiến trường, nhân dân đã làm hàng nghìn hầm trú ẩn các loại cho người và xe, người và hàng hóa, đào hàng trăm kilômét giao thông hào chiến đấu, rà phá được hàng chục quả bom các loại. Với những đóng góp to lớn đó, Nhà nước đã phong tặng Đảng bộ và nhân dân Sơn Bình hàng chục Bằng khen, Huân, Huy chương các loại,... hàng trăm Kỷ niệm chương cho tập thể và cá nhân đã có thành tích chiến đấu, phục vụ chiến đấu.

Những bài học kinh nghiệm từ thành công và hạn chế của phong trào trong giai đoạn lịch sử 10 năm chống Mỹ, cứu nước mãi mãi có giá trị góp phần soi sáng bước đường đi lên của Đảng bộ và nhân dân Sơn Bình trong những chặng đường cách mạng tiếp theo.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Chương IV

ĐẢNG BỘ SƠN BÌNH LÃNH ĐẠO CÔNG CUỘC PHÁT TRIÊN KINH TẾ - VĂN HÓA - XÃ HỘI, QUỐC PHÒNG - AN NINH GIAI ĐOẠN 1975 - 1985

 

           I. THỰC HIỆN KẾ HOẠCH NHÀ NƯỚC 5 NĂM (1976 - 1980)

Đại thắng mùa Xuân năm 1975, đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã kết thúc thắng lợi trọn vẹn sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước. Từ đây, nhân dân ta cùng tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, phấn đấu xây dựng một xã hội công bằng, văn minh, mọi người dân đều có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.

Hòa chung khí thế của toàn dân tộc Đảng bộ và nhân dân Sơn Bình bước vào giai đoạn mới với những thuận lợi hết sức cơ bản: Trải qua hơn 20 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội (1954-1975), nhân dân Sơn Bình đã đạt được những thành tựu to lớn trên nhiều mặt: sản xuất, chiến đấu; bước đầu xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội; lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa được xác lập và từng bước củng cố; cán bộ đảng viên được tôi luyện và trưởng thành trong khói lửa chiến tranh. Bên cạnh đó, bước sang giai đoạn mới, Đảng bộ và nhân dân Sơn Bình cũng đứng trước không ít khó khăn thử thách gay gắt: hậu quả chiến tranh để lại hết sức nặng nề; những thành quả lao động mà nhân dân Sơn Bình dày công xây đắp bị hai cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ gây ra tàn phá hầu hết; trong chiến tranh, nhân dân Sơn Bình vừa sản xuất, vừa chiến đấu, vừa làm nghĩa vụ hậu phương nên quá trình sản xuất bị chậm lại, đời sống nhân dân gặp rất nhiều khó khăn.

           Ngày 10-7-1975, Đại hội Đảng bộ huyện Hương Sơn đã diễn ra tại Hội trường Huyện ủy. Tham dự Đại hội, đoàn đại biểu Sơn Bình có các đồng chí: Nguyễn Quang - Bí thư Đảng bộ, đồng chí Lê triêm - Chủ tịch UBND xã, đồng chí Trần thị Lý - Hội trưởng phụ nữ xã, đồng chí Nguyễn Khương - Chủ nhiệm hợp tác xã nông nghiệp.

            Đại hội đã đánh giá kết quả lãnh đạo thực hiệm vụ cho nhiệm kỳ tới. Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành gồm 27 uỷ viên. Tại Hội nghi lần thứ nhất, Ban Chấp hành Đảng bộ Huyện đã bầu ra Ban Thường vụ 9 đồng chí. Hội nghị đã nhất trí bầu đồng chí Nguyễn Tứ làm Bí thư, đồng chí Đào Thị Vương làm Phó bí thư, Chủ tịch UBND.

            Sau đại hội Huyện đảng bộ, thực hiện kế hoạch và hướng dẫn của Huyện uỷ, ngày 25-10-1975 hội Đảng bộ xã Sơn Bình khóa VIII (nhiệm kỳ 1975-1976) được tổ chức tại............ Tham dự đại hội có 176 đảng viên trong tổng số 209 đảng viên, đồng chí Nguyễn Đình Lâm thường vụ Huyện uỷ tới dự trực tiếp chỉ đạo Đại hội. Đại hội đã thảo luận nghiêm túc tự kiểm điểm đánh giá đúng những thành tích, tồn tại trong nhiệm kỳ qua đồng thời đề ra phương hướng, nhiệm vụ trong nhiệm kỳ tới.

           Đại hội nêu rõ: Trong nhiệm kỳ 1974-1975, nhờ học tập, quán triệt các nghị quyết của Trung ương Đảng và Bộ Chính trị, trình độ, nhận thức của cán bộ đảng viên không ngừng được nâng lên, có quyết tâm cao trong việc lãnh đạo nhân dân thực hiện các nhiệm vụ đã đề ra, nhất là thực hiện đợt thi đua “Tất cả vì miền Nam ruột thịt, tất cả cho tiền tuyến lớn, dồn sức cho miền Nam đánh thắng” do Tỉnh uỷ phát động. Đảng viên và nhân dân ai cũng tự giác góp sức mình, mọi nhiệm vụ trên giao như tuyển quân đi dân công hoả tuyến, phục vụ chiến trường miền Nam, chiến trường Lào, về lương thực thực phẩm. Bà con và cán bộ ở nhà ai cũng cố gắng, tự nguyện sản xuất cày cấy hết diện tích, đảm bảo mọi công việc xã hội với khẩu hiệu: “một người làm việc bằng hai”. Và tiếp sau ngày miền Nam đại thắng, xã tiếp tục phát động đợt thi đua lập thành tích chào mừng miền Nam đại thắng, nước nhà thống nhất.

           Đại hội cũng thẳng thắn chỉ ra những yếu kém trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ như chưa coi trọng đúng mức chủ trương đưa sản xuất lên sản xuất lớn; chưa mạnh dạn áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất; cải tạo đồng ruộng chưa đạt kết quả đề ra; trong điều kiện chiến tranh ác liệt, sự lãnh đạo của Đảng bộ còn lúng túng, một số đảng viên chưa tự giác kiểm điểm, đấu tranh, còn nể nang né tránh, số đảng viên yếu kém còn cao.

            Về phương hướng, nhiệm vụ trong nhiệm kỳ tới, Đại hội nhất trí và nhấn mạnh một số vấn đề sau:

              - Củng cố 2 HTX nông nghiệp chưa đầu tư sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh áp dụng khoa học kỹ thuật, đưa giống mới có năng suất cao, tận dụng hết các loại phân chuồng, bón ao, phân xanh bèo hoa dâu vào sản xuất;

              - Xây dựng cánh đồng có năng suất cao đảm bảo đưa năng suất bình quân đạt 20 tạ/ha, tổng sản lượng đạt 886 tấn;

              - Củng cố chính quyền, mặt trận và các đoàn thể, nâng cao trình độ chính trị cho cán bộ hội viên làm nòng cốt trong các mặt xây dựng và sản xuất;

              - Nâng cao tinh thần cảnh giác cho tất cả cán bộ, đảng viên, nhân dân, thấy rõ âm mưu của bọn thú địch, nhất là bọn tưởng tá vệ, bọn tay sai ngụy quân, ngụy quyền chạy sang Mỹ, cấu kết với bọn phản động lưu vong tìm mọi cách tuyên truyền xuyên tạc chống phá nước ta, phải tập trung xây dựng lực lượng dân quân tự vệ và công an để sẵn sàng đối phó với mọi tình huống xấu xẩy ra;

               - Về xây dựng Đảng, tiếp tục phát huy học tập các nghị quyết của các cấp uỷ Đảng để xây dựng Đảng bộ vững mạnh toàn diện, quyết tâm bồi dưỡng nâng cao trình độ cho các đảng viên trung bình lên đảng viên khá đạt 50%, tất cả đảng viên yếu kém viên trung bình và đưa ra khỏi Đảng những đảng viên không quyết tâm sửa lên đảng chữa.

               Đại hội bầu ra Ban Chấp hành mới gồm 11 đồng chí. Đồng chí Lê Triêm được bầu giữ chức vụ Bí thư Đảng uỷ; đồng chí Nguyển Quốc Trị phụ trách trực Đảng; đồng chí Nguyễn Thị Hưng được bầu giữ chức vụ Chủ tịch Ủy ban nhân dân; Nguyễn Khương phụ trách Chủ nhiệm HTX Thanh Bình; đồng chí Lê Quán phụ trách Xã đội trưởng; đồng chí Nguyễn Nhiên - Bí thư đoàn xã; đồng chí Nguyễn Quang phụ trách Chủ nhiệm HTX mua bán; đồng chí Nguyển Thắng Lợi phụ trách Trưởng công an; Nguyễn Tuyến phụ trách Chủ nhiệm HTX Đồng Hòa; đồng chí Phan Thị Oanh phụ trách Hội trưởng Hội phụ nữ xã; đồng chí Lê Quốc Việt phụ trách khai hoang.

             Sau Đại hội, Đảng uỷ mới tổ chức họp cán bộ Đảng, chính quyền, mặt trận, HTX từ xóm trở lên để triển khai thực hiện nghị quyết, đặt vấn đề cho toàn xã viên và nhân dân thực hiện tốt mọi nhiệm vụ, trước mắt làm tốt thu hoạch vụ mùa tổ chức ăn chia nhanh gọn, đảm bảo chủ trương chính sách và tranh thủ làm đất, bắc mạ chuẩn bị phân bón để sản xuất vụ đông xuân năm 1976. Với đà phấn khởi, toàn Đảng toàn dân đã hoàn thành tốt kế hoạch đề ra.

  Ngày 27-12-1975, theo Nghị quyết Quốc hội khóa V, kỳ họp thứ 2, hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh hợp nhất thành tỉnh Nghệ Tĩnh. Sự kiện này đã tạo điều kiện phát huy sức mạnh tổng hợp của một vùng đất cùng một truyền thống lịch sử - văn hóa trông công cuộc xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc.

  Bước sang năm 1976 ngoài việc đẩy mạnh công tác sản xuất, và các công tác còn lại của năm 1975, và là dịp tết Nguyên đán Bính Dần, tết đầu tiên cả nước được độc lập, thống nhất, hoà bình. Xã chủ trương động viên toàn dân phấn khởi ăn tết đón xuân với khí thế chiến thắng, vui tươi, tự hào. Xã có kế hoạch cho các xóm, HTX kiểm tra tình hình từng gia đình, đảm bảo gia đình nào cũng có gạo, thịt, bánh chưng, chú trọng các gia đình neo đơn, gia đình chính sách. Xã giao cho HTX mổ bò, lợn chia cho cán bộ, xã viên, cấp thêm gạo, nếp cho cho các hộ thiếu.

Trong 3 ngày tết nhà nào cũng treo cờ xóm nào cũng tổ chức vui chơi.  Xã tổ chức thi bóng đá, bóng chuyền, đánh cờ tướng, tổ chức đi thăm hỏi chúc tết, tặng quà cho các gia đình chính sách, gia đình có con đang tại ngũ và các cụ già cao  tuổi.

Sau tết, xã phát động toàn dân ra quân sản xuất đầu năm, làm đất trỉa lạc, trỉa đậu ngô, ai cũng đều hăng hái nhiệt tình làm hết sức mình để lập được nhiều thành tích, làm hết ở đồi bà con tranh thủ làm đồi thu hoạch sắn, khoai, đất hoang trồng tiếp sắn, khoai, ngô, đậu và đã biến vùng đất cằn cỗi thành nương ngô, khoai, sắn .        

Từ quý I đầu năm 1976, theo kế hoạch của Trung ương sẽ tổ chức Tổng tuyển cử bầu cử Quốc hội của nước Việt Nam thống nhất vào ngày 24-4-1976 và Trung ương Đảng chuẩn bị Đại hội toàn quốc khoá IV vào cuối năm nên Huyện uỷ có chỉ thị cho Đảng uỷ và chính quyền xã có kế hoạch Đại hội Đảng bộ xã sớm hơn thời gian quy định, chuẩn bị tổ chức bầu cử Quốc hội khoá VI và hội đồng nhân dân xã nhiệm kỳ 1976-1977.

 Đảng bộ xã một mặt lo chỉ đạo sản xuất và tập trung chuẩn bị cho Đại hội Đảng bộ, bầu cử Quốc hội và Hội động nhân dân xã.

 Được sự nhất trí của Huyện ủy, ngày 11-4-1976, Đảng bộ xã Sơn Bình tổ chức Đại hội khóa IX (nhiệm kỳ 1976-1977) tại.............. Tham dự Đại hội có 170 đảng viên, đại diện cho 235 đảng viên trong toàn Đảng bộ. Đồng chí Nguyễn Thị Hương - Huyện uỷ viên, được Huyện uỷ cử về tham dự và chỉ đạo Đại hội.

            Đại hội đã nhất trí với nhận định: trong nhiệm kỳ qua với tinh thần quyết tâm cao của toàn Đảng bộ va nhân dân xã nhà nên mọi nhiệm vụ đề ra từ Đại hội khóa VIII đều hoàn thành tốt. Đảng bộ đã coi trọng và đặt vấn đề củng cố các tổ chức quần chúng, thực hiện tốt công tác đại đoàn kết toàn dân, phát huy được tính cần cù, tích cực của nhân dân, củng cố lại 2 HTX nông nghiệp Thanh Bình và Đồng Hòa, sắp xếp lại các đội nay mỗi hợp tác xã có 5 đội. Hợp tác xã đã có quyết tâm chỉ đạo xã viên ai cũng cố gắng để đạt năng suất cây trồng vật nuôi, nhiều đội đã áp dụng khoa học kỹ thuật như chăm bón, coi trọng công tác thuỷ lợi nhất là chống hạn chống lụt bão có kết quả. Nhờ vậy mà 2 năm nay xã nhà là lá cờ đầu của phong trào của huyện và của tỉnh.

             Bên cạnh đó, Đại hội thẳng thắn chỉ ra những tồn tại, khuyết điểm của phong trào trong năm qua như: chỉ đạo làm giao thông thuỷ lợi chưa thật đồng đều; quản lý đất chưa đạt yêu cầu; một số cán bộ và xã viên chưa coi trọng thâm canh, chưa chú ý lai tạo giống có năng suất cao, chăn nuôi tập thể chưa đạt chỉ tiêu; việc tổ chức cưới hỏi chưa thực hiện đúng chủ trương, còn ăn uống lãng phí; chưa giữ vững chế độ sinh hoạt các chi bộ, nội dung sinh hoạt còn chung chung, chưa phát huy được tinh thần đấu tranh xây dựng cho nhau.

            Tiếp thu những bài học king nghiệm của nhiệm kỳ trước, trên cơ sở xem xét tình hình cụ thể của xã nhà, Đại hội đã đề ra phương hướng cho hai năm tới là:

             - Đẩy mạnh công tác từ nay đến cuối  năm và năm 1977 đạt năng suất cả lúa và màu, cây công nghiệp để có sản lượng đảm bảo đủ lương thực cho nhân dân và phục vụ cho nhà nước;

        - Đẩy mạnh phong trào chăn nuôi tập thể và hộ gia đình nhằm tăng mạnh đàn gia súc, gia cầm;

        - Phát triển xí nghiệp gạch, mộc, rèn, phát động nhân dân và hợp tác xã mua xe cải tiến, đóng thêm xe cút kít để giải phóng đôi vai;

        - Tiếp tục tổ chức học tập các Nghị quyết của Đảng cho toàn Đảng bộ để nâng cao nhiệm vụ chính trị cho dảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ lãnh đạo. Các chi bộ phải sinh hoạt đảm bảo đúng định kỳ và giữ vững tinh thần đấu  tranh tự giác để năm nào chi bộ, Đảng bộ cũng đạt trong sạch vững mạnh.

             Đại hội đã bầu Ban Chấp hành nhiệm kỳ mới gồm 12 đồng chí, đồng chí Nguyễn Quang được bầu giữ chức vụ Bí thư Đảng ủy; đồng chí Nguyễn Quốc Trị được bầu giữ chức vụ Phó bí thư trực Đảng; đồng chí Lê Triêm được bầu giữ chức vụ Chủ tịch Uỷ ban nhân dân; đồng chí Nguyễn Hữu Ngôn giữ chức vụ Phó chủ tịch Uỷ ban nhân dân; đồng chí Lê Quán phụ trách Xã đội; đồng chí Nguyễn Thắng Lợi phụ trách công an; đồng chí Lê Tôn Báo - ủy viên ủy ban phụ trách ruộng đất kỹ thuật nông nghiệp; đồng chí Nguyễn Khương phụ trách  Chủ nhiệm HTX nông nghiệp Thanh Bình; đồng chí Nguyễn Tuyến phụ trách Chủ nhiệm HTX nông nghiệp Đồng Hòa; đồng chí Nguyễn Nhiên - Bí thư đoàn xã; đồng chí Phan Thị Oanh - Hội trưởng Hội LHPN; đồng chí Nguyễn Vương Thiện  phụ trách tuyên huấn.

             Đại hội bầu 7 đại biểu đi dự Đại hội đảng bộ Huyện khóa XI gồm: đồng chí Nguyễn Thị Hưng - Huyện ủy viên, đồng chí Lê Triêm, đồng chí Nguyễn Quang, đồng chí Lê Tôn Báo, đồng chí  Nguyễn Khương, đồng chí Lê Thị Lan, đồng chí Lê Kiểm.

            Sau Đại hội, theo sự hướng dẫn của Tỉnh ủy, Huyện ủy, Đảng bộ đã lãnh đạo, chỉ đạo nhân dân xã nhà tiến hành thành công cuộc bầu cử Quốc hội khóa VI cụm Sơn Bình và bầu cử Hội động nhân dân xã với 99% cử tri tham gia bỏ phiếu. Kết quả bầu được 21 ủy viên vào Hội đồng nhân dân xã nhiệm kỳ mới.

            Trong thời gian cuối năm 1975, theo kế hoạch của Huyện ủy đưa bệnh viện huyện từ xã Sơn Phú về đóng tại xã Sơn Bình. Thực hiên nhiệm vụ huyện giao, xã đã tổ chức một đội lao động gồm anh em hưu trí và xã viên sang sang Khe Cò (Sơn Lễ) dỡ một số nhà của Đoàn 70, đoàn an dưỡng thương bệnh binh của Quân khu IV, đã giải thể về dựng thành 2 nhà 10 gian giao cho bệnh viện.

           Cũng trong thời gian này, Huyện ủy quyết định di dời một số hộ gia đình của các xã ven sông phố từ xã Sơn Bằng lên Sơn Tây để mở rộng đất canh tác và giải quyết cho các gia đình hay bị ngập lụt. Huyện huy động lên chuyển gia đình nhà cửa cho một số gia đình thuộc hai xã Sơn Tây và Sơn Trung. Xã đã tổ chức 2 đội lao động mang cơm vào và đồ dùng lên chuyển giúp đến 3 ngày mới xong

           Tiếp theo thực hiện theo chủ trương của huyện là đắp đê phòng chống lũ tiểu mạn cho vùng Sơn Hà, Sơn Mỹ, Sơn Long, Sơn Trà, Sơn Tân gọi là đê Tân Long. Xã Sơn Bình đã tổ chức 2 đội lao động đắp đoạn đê từ cuối xã Sơn Mỹ sang đến xã Sơn Tân dài khoảng 500 m với khối lượng 3000 m3.

          Thời gian từ tháng 6 đến tháng 12-1976, theo kế hoạch của Trung ương Đảng sẽ tổ chức Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV từ ngày 14 đến 20-12-1976 Đại hội toàn quốc lần này Trung ương lấy chủ đề là “Đại hội toàn thắng của sự nghiệp giải phóng dân tộc”. Đại hội tổng kết những bài học lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

           Với tầm quan trọng của Đại hội như vậy nên Trung ương đề ra kế hoạch tiến hành phổ biến cho toàn Đảng thấy được tầm quan trọng và nắm được nội dung kế hoạch tiến hành từ đại hội chi bộ cơ sở đến đại hội tỉnh Đảng bộ để học tập và góp ý các văn bản dự thảo của Trung ương, đồng thời các cấp bầu đoàn đại biểu đi dự đại hội đại biểu cấp trên.

           Theo sự hướng dẫn của Huyện ủy, Đảng bộ đã tổ chức cho 3 chi bộ mở hội nghị của đại biểu dự đại hội đại biểu đảng bộ xã (Tỷ lệ cứ 3 đảng viên cử 1 đại biểu). Kết quả bầu được 78 đại biểu, trong đó HTX Thanh Bình bầu được 24 đại biểu; HTX Đồng Hòa bầu được 52 đại biểu; chi bộ trường học bầu được 2 đại biểu.

           Đảng ủy xã đã quyết định mở đại hội đại biểu toàn Đảng bộ ngày 20-10-1976. Tham dự có đồng chí Nguyễn Thị Hưng - Huyện ủy viên về dự và ứng cử đại biểu, đồng chí Tại - cán bộ tổ chức của UBND Huyện về tham dự và chỉ đạo Đại hội. Nội dung của Đại hội là:

           - Thảo luận và góp ý vào bản đề cương do BCH Trung ương dự thảo;

           - Thảo luận dự thảo đổi tên Đảng Lao động Việt Nam thành Đảng Cộng sản Việt Nam và điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam;

           - Bầu đoàn đại biểu của Đảng bộ đi dự Đại hội Đảng bộ Huyện;

           - Đại hội đã nghe đồng chí Hưng báo cáo và phân tích các văn bản dự thảo của Trung ương nhất là vấn đề đổi tên Đảng;

           Đại hội đã nghiêm túc thảo luận và rất phấn khởi tự hào thấy được sự lớn mạnh của đảng và đảng đã hoàn thành việc thống nhất đất nước và sẽ đưa đất nước lên giàu mạnh theo con đường xã hội chủ nghĩa.

           Về vấn đề đổi tên Đảng và Điều lệ Đảng, Đại hội phân tích: tuy trước đây lấy tên Đảng Lao động nhưng đường lối và nhiệm vụ vẫn tiến lên chủ nghĩa xã hội và cộng sản chủ nghĩa, lúc bấy giờ lấy tên Đảng Lao động là phù hợp. Nay nước nhà đã thống nhất, phong trào công nhân quốc tế đã lớn mạnh thì đổi tên Đảng Cộng sản là phù hợp với tình hình trong nước và quốc tế.

            Đại hội hoàn toàn nhất trí các văn kiện dự thảo của Trung ương và bầu 6 đồng chí đi dự đại hội Đảng bộ huyện là: đồng chí Nguyễn Thị Hưng, đồng chí Nguyễn Quang, đồng chí Lê Triêm, đồng chí Nguyễn Khương, đồng chí Lê Tôn Báo, đồng chí Lê Thị Lan.

           Ngày 11-11-1976, Đảng bộ xã triệu tập hội nghị Đảng bộ để nghe đoàn đại biểu báo cáo kết quả Đại hội đảng bộ Huyện và đồng chí Bí thư báo cáo công tác kế hoạch thu hoạch vụ mùa và xúc tiến kế hoạch đông xuân 1976-1977 và củng cố Hợp tác xã, thành lập các chi bộ và cử các đồng chí phụ trách 10 chi bộ và đội cơ bản, 9 chi đội đội chuyên (4 chuyên cày, 1 rau chè, 2 thủy lợi, 1 ngành nghề, 1 trường học) và tiến tới Đại hội Hợp tác xã nông nghiệp.

           Bước sang xuân 1977, đảng viên và nhân dân theo dõi kết quả của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV, ai nấy đề phấn khởi vì Đại hội đã vạch ra đường lối chung cho nước nhà tiến dần lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.

           Với tinh thần phấn khởi tự hào Đảng ủy và Ủy ban đã tổng hợp thành tích đợt thi đua chúc mừng đại hội lần thứ IV của Đảng (từ tháng 4-1976 đến tháng 1-1977). Nhờ tinh thần tự giác thi đua ai nấy đề đem hết sức mình tham gia sản xuất lao động đợt này đến đợt khác, để hoàn thành tốt hai vụ sản xuất năm 1976. Ngoài ra, xã đã làm tốt công tác giao thông nông thôn như phát sẽ khơi mương, xây đắp cống rảnh đắp và tôn tạo mặt đường trục và thôn xóm tạo nên xóm làng phong quang sạch đẹp.

           Công tác khai hoang phục hóa, cất bốc mồ mã còn rải rác ở trên ruộng nương, cồn bãi và phá bỏ các bờ đường, lòi cây bãi tha ma tạo thành mảnh ruộng, đám nương rộng rãi và bờ vùng bờ thửa thẳng tắp tạo điều kiện cho cày cấy được thuận lợi và dễ dàng hơn. Đảng ủy đã đề ra một số công tác và đặt vấn đề cho toàn Đảng toàn dân tiếp tục thi đua chào mừng đại hội Đảng bộ xã vào tháng 4-1977.

           Ngày 26-4-1977, Đảng bộ xã Sơn Bình tổ chức Đại hội khóa X (nhiệm kỳ (1977-1979) tại.............. Tham dự đại hội có 215 đảng viên, đồng chí Nguyễn Thị Hưng - Huyện ủy viên về tham dự và chỉ đạo Đại hội.

           Đại hội đã thảo luận đánh giá kết quả sự lãnh đạo của Đảng bộ nhiệm kỳ qua và dự thảo phương hướng cho nhiệm kỳ năm 1977-1979. Đại hội nhất trí như bản dự thảo và nhấn mạnh một số kết quả nổi bật: Đảng bộ và chính quyền xã nhà đã tổ chức thực hiện tốt công tác Tổng tuyển cử bầu Quốc hội khóa VI và bầu Hội đồng nhân dân các cấp. Tổ chức học tập và thảo luận góp ý vào bản đề cương do Trung ương dự thảo, về đổi tên Đảng Lao động thành Đảng Cộng sản Việt Nam để tiến hành đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV. Mặc dù năm vừa qua thời tiết nắng hạn, lũ lụt xảy ra liên tiếp, nhưng các mặt công tác sản xuất và xây dựng đều đạt được kết quả đẩy mạnh, sản xuất hai vụ có năng suất cao, các công tác giao thông nông thôn, cải tạo đồng ruộng, cất bốc mồ mả đều đạt kết quả; công tác xây dựng chính quyền, các tổ chức quần chúng vững mạnh hơn trước đem lại đời sống vật chất, an ninh - quốc phòng được đảm bảo.

           Bên cạnh những thành tích đã đạt được, Đại hội cũng chỉ ra một số mặt còn yếu kém như: việc xây dựng nếp sống văn hóa mới chưa thành thói quen tự giác của nhân dân, công tác vệ sinh phòng dịch còn lỏng lẻo, một số gia đình còn qua loa đại khái; lãnh đạo công tác xây dựng gia đình văn hóa còn chung chung, chỉ kêu gọi còn đi sát để giúp đỡ gia đình chưa làm được; về an ninh tuy có chú ý nhưng tệ nạn xã hội ở xung quanh đường 8 vẫn còn xảy ra.

          Về phương hướng, mục tiêu cho nhiệm kỳ tới, Đại hội quyết tâm tiếp tục phát huy kết quả đã đạt được, động viên toàn Đảng bộ, toàn dân đoàn kết một lòng xây dựng Đảng bộ mạnh về chính trị tư tưởng, vững vàng về tổ chức để lãnh đạo nhân dân thực hiện đạt và vượt các chỉ tiêu đã đề ra:

          - Về sản xuất canh tác đạt 452 ha vượt 45 ha cả lúa, sắn khoai và cây công nghiệp;

     - Về năng suất cả năm đạt 1.184 tấn, quy thóc đạt đầu người 26 kg/người/ tháng;

     - Về chăn nuôi: trâu bò đạt 350 con vượt 30 con; lợn đạt 1.410 con vượt trên 300 con; cá ở hồ đập và bàu đạt 10 tấn; gia cầm đủ dùng cho Hợp tác xã; phục vụ cho Nhà nước là 14 tấn thịt lợn  5 tấn thịt trâu bò, 1,3 tấn thịt gia cầm.

           - Về giao thông thủy lợi tu sửa và tôn tạo con đường trục chính và các hồ đập, kênh mương giữ vững hàng năm sẽ phát khơi rãnh các con đường thôn xóm;

           - Về văn hóa, y tế: thường xuyên tuyên truyền giáo dục chỉ đạo đi sâu đi sát để xây dựng gia đình văn hóa xóm, văn hóa; Tổ chức các đội văn hóa văn nghệ, báo cáo viên định kỳ phục vụ nhân dân xóm; Chăm lo việc học tập văn hóa cho các em để xã phổ cập hết cấp II, xây dựng trường cấp I và cấp II thành trường tiên tiến cấp huyện, cấp tỉnh; Xây dựng y tế trạm xã phục vụ và chăm lo sức khỏe cho nhân dân, ngăn ngừa dịch bệnh xảy ra, thực hiện tốt kế hoạch hóa gia đình, không để trường hợp nào sinh con thứ 3 trở lên.

            - Tập trung xây dựng và giáo dục tổ chức Mặt trận và tổ chức quần chúng, để các tổ chức đó tự giác gương mẫu làm nòng cốt trong việc thực hiện các chủ truơng, chính sách của Đảng và luôn luôn đề xuất những vấn đề cốt lõi cho Đảng.

            - Thống nhất hai hợp tác xã thành một và xếp gọn những đội lại thành mười đội cơ bản. Thành lập các đội chuyên như cày, ngành nghề, thủy lợi, trồng cấy…

            - Về xây dựng Đảng: tổ chức học tập, quán triệt tốt về Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV để toàn Đảng nắm chắc nội dung nghị quyết, và vận dụng nghị quyết vào tình hình thực tiễn xã nhà. Phấn đấu hàng năm đạt chi bộ, Đảng bộ, đảng viên loại tốt vững mạnh.

            Đại hội bầu Ban Chấp hành mới gồm 15 ủy viên. Đại hội nhất trí bầu 15 ủy viên làm đại biểu về huyện dự Đại hội Đảng bộ huyện khóa XII, diễn ra từ ngày 18 đến 22-5-1977.

            Sau Đại hội, Đảng bộ xã mở Hội nghị Ban Chấp hành phiên họp thứ nhất. Phân công cấp ủy viên nhận các nhiệm vụ như sau: Đồng chí Lê Triêm giữ chức vụ Bí thư Đảng ủy; đồng chí Nguyễn Hữu Ngôn - Thường vụ giữ chức vụ Chủ tịch Ủy ban nhân dân; đồng chí Nguyễn Quốc Trị phụ trách trực Đảng; đồng chí Nguyễn Thắng Lợi  ủy viên phụ trách công an;  đồng chí Lê Quán phụ trách Xã đội; đồng chí Nguyễn Quang phụ trách Chủ nhiệm hợp tác xã nông nghiệp; đồng chí Phan Thị Oanh - Chủ tịch Hội Liên hiệp phụ nữ xã; đồng chí Nguyễn Nhiên - Bí thư Đoàn xã; đồng chí Cao Bát - ủy viên quản trị hợp tác xã; đồng chí Nguyễn Liêu chủ nhiệm hợp tác xã mua bán; đồng chí Nguyễn Vương Thiện ủy viên kiểm soát; đồng chí Lê Quốc Việt phụ trách khai hoang.

            Đảng ủy nghe đoàn đại biểu dự họp Đại hội Đảng bộ huyện về báo cáo: Đại hội đã thống nhất về nhận định tình hình và các phương hướng nhiệm vụ khóa XII và bầu Ban Chấp hành Huyện ủy 29 đồng chí Huyện ủy viên và ban Chấp hành họp phiên thứ nhất bầu Ban Thường vụ gồm 9 đồng chí và phân công đồng chí Nguyễn Tứ được bầu làm Bí thư Huyện ủy, đồng chí Hồ Xuân Hương được bầu làm Phó bí thư, đồng chí Nguyễn Mạnh Tường được bầu làm Phó bí thư phụ trách chính quyền (trong 9 đồng chí Thường vụ, xã Sơn Bình có đồng chí Lê Nghiên là Thường vụ phụ trách công tác kiểm tra).

           Đảng ủy bàn việc triển khai nhiệm vụ của Đại hội Đảng bộ và Nghị quyết đại hội Huyện đảng bộ cho 2 năm 1977-1978 và phân công các đồng chí ủy viên Ban Chấp hành về phụ trách ở cơ sở, các ngành, các đoàn thể chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ.

            Dưới sự lãnh đạo của Huyện ủy, được Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ X soi sáng, cán bộ, đảng viên và nhân dân Sơn Bình hào hứng bắt tay vào lao động sản xuất, quyết tâm tạo nên một bước chuyển biến mạnh mẽ trên các mặt kinh tế - xã hội.

       - Về sản xuất nông nghiệp, mặc dầu trong 2 năm 1977-1978, nhân dân Hương Sơn nói chung, Sơn Bình nói riêng phải gánh chịu nhiều thiên tai nặng nề. Đảng bộ và nhân dân Sơn Bình đứng trước những thử thách khắc nghiệt. Sau hạn hán kéo dài là đợt rét đậm cuối năm 1977. Tiếp theo, tháng 9-1978, cơn bão số 8 gây ra lũ lụt chưa từng có. Trước tình hình đó, Đảng ủy và Ủy ban đã tập trung lãnh đạo toàn dân nỗ lực với khẩu hiệu còn nước còn tát, những nơi không chống hạn được như cồn sim cồn găng và các vùng cao Bảo Thịnh chuyển sang trồng ngô, trồng khoai, trồng đậu để tránh lụt, tăng vụ thu và tranh thủ gặt sớm nhờ vậy mà mà đảm bảo cấy cày trồng trỉa hết diện tích, thu hoạch kịp thời đảm bảo được kế hoạch đề ra, giữ vững được mức sống cho nhân dân và còn có dự trữ đề phòng vụ sau.

      - Về chăn nuôi của tập thể và gia đình đều đảm bảo kế hoạch đề ra phục vụ đầy đủ cho hợp tác xã và cho nhà nước.

      - Các ngành nghề đều phát triển, đảm bảo phục vụ cho nhân dân và xây dựng cho hợp tác xã nhất là gạch có bán cho ngoài xã.

      - Trồng cây công nghiệp nhất là mía, lạc cung cấp đủ cho nhà máy, còn thừa các gia đình ép mật làm đường phèn lạc bán cho nhà nước xuất khẩu.  

      - Về mặt văn hóa giáo dục, thông tin thể dục thể thao. Đảng ủy cùng chi bộ nhà trường đã tổ chức học tập và nghiên cứu Nghị quyết XIV của Bộ Chính trị về nâng cao chất lượng dạy và học qua đó mà đã kiểm điểm đánh giá kết quả những năm trước, rút ra kinh nghiệm sửa chữa và có kế hoạch về cách dạy của giáo viên, cách học của học sinh. Ngoài ra, Ủy ban đã cho tiến hành tu sửa lại trường học, mua sắm thêm thiết bị để nhà trường có điều kiện dạy tốt, nhờ vậy mà năm 1978 trường cấp I, cấp II được xếp loại nhà trường tiên tiến của huyện và tỉnh. Đảng uỷ cũng đã tập trung củng cố lại ngành thông tin tuyên truyền, tổ chức các đội báo cáo viên hàng tháng về các xóm đi nói chuyện thời sự, phổ biến các chủ trương, nghị quyết của cấp trên, qua phổ biến kết hợp với biểu dương người tốt việc tốt, phân tích các mặt yếu kém để xây dựng con người mới hội chủ nghĩa.

       - Xã rất chú ý đến công tác phòng dịch bệnh huy động nhân dân hàng tháng phát dọn vệ sinh môi trường, đường làng ngõ xóm, sử dụng các loại thuốc phun vào chuồng trâu, chuồng lợn gà, nhà vệ sinh vận động nhân dân làm nhà vệ sinh hai ngăn…

       Trong 2 năm 1977-1978, khi tình hình biên giới trở nên căng thẳng, dưới sự chỉ đạo của huyện, Đảng uỷ và chính quyền xã nhà tập trung xây dựng lực lượng quốc phòng sẵn sàng đối phó khi có tình hình xấu xảy ra. Tổ chức củng cố lại lực lượng dân quân du kích, dự trữ lương thực, thực phẩm, giáo dục cho toàn dân sẵn sàng chiến đấu. Thanh niên sẵn sàng nhập ngũ, công an sẵng sàng trấn áp bọn gây hoang mang phá rối đảm bảo cho an ninh trật tự, bảo vệ tốt cho quê hương. Song song với sẵn sàng chiến đấu, việc sản xuất đông xuân 1978-1979 Đảng ủy đã trực tiếp chỉ đạo các đội sản xuất cày cấy, trồng trỉa quyết tâm đem lại vụ chiêm xuân thu hoạch thắng lợi.

          Tháng 6-1979, Đảng bộ xã Sơn Bình tổ chức Đại hội khoá XI (nhiệm kỳ (1979-1980) tại............. để tổng kết công tác nhiệm kỳ 1977-1979, bầu cấp uỷ mới và đoàn đại biểu đi dự Đại hội Đảng bộ huyện khoá XIII. Đại hội tổ chức 2 vòng.

           - Vòng 1 khai mạc vào 1-6-1979. Tham dự Đại hội có 253 đảng viên chính thức, 3 đảng viên dự bị, đồng chí Trần Tuấn Khanh đại diện huyện cùng về dự họp và chỉ đạo Đại hội.

      Đại hội đã nghe đồng chí Lê Triêm - Bí thư Đảng uỷ báo cáo đánh giá kết quả sự lãnh đạo của Đảng bộ trong nhiệm kỳ qua. Đại hội đã thảo luận góp ý và nhất trí và nhấn mạnh những mặt mạnh, mặt yếu như sau: nhiệm kỳ  qua mặc dù thời tiết không được thuận lợi, thiên tai lụt lội thường xuyên xảy ra, tình hình biên giới căng thẳng nhưng Đảng bộ đã lãnh đạo nhân dân xã nhà phát huy được tinh thần quyết tâm đẩy mạnh sản xuất, chuyển đổi cây trồng đảm bảo được năng xuất, thu hoạch được kịp thời nên đã đảm bảo được đời sống nhân dân và nghĩa vụ đối với Nhà nước.

     Về mặt quốc phòng - an ninh: đã tập trung và xây dựng dân quân công an, tuyển quân đầy đủ quân số, theo dõi sát những đối tượng hay xuyên tạc sự thật, có hành vi xấu trong trật tự an ninh nên tình hình xã nhà được ổn định.

     Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn một số mặt còn yếu kém: một số xã viên sản xuất làm ăn cốt để lấy điểm chưa chú ý đến năng xuất cây trồng, một số cán bộ và xã viên lo làm việc nhà hơn việc hợp tác xã nên chỉ đạo chưa kịp thời, cho nên có nhiều thửa ruộng năng xuất thấp, có một số công tác còn bỏ dở.

      Họp được một ngày, Đại hội nghỉ để cho cán bộ chủ chốt đi họp huyện, gặp Tổng Bí thư Lê Duẩn về thăm Hương Sơn, nói chuyện, căn dặn cán bộ và nhân dân Hương Sơn.

     - Vòng 2 diễn ra vào ngày 4-6-1979. Đại hội đã nghe đồng chí Nguyễn Quang - Thường vụ Đảng uỷ báo cáo lời huấn thị của đồng chí Tổng Bí thư để Đảng bộ có kế hoạch thực hiện.

     Đại hội bầu Ban Chấp hành mới gồm 15 ủy viên, đồng chí Lê Triêm được bầu giữ chức vụ Bí thư Đảng ủy; đồng chí Nguyễn Quốc Trị giữ chức vụ Phó bí thư, trực Đảng; đồng chí Nguyễn Hữu Ngôn giữ chức vụ Phó bí thư, Chủ tịch Ủy ban nhân dân.

      Về phương hướng, nhiệm vụ nhiệm kỳ 1979-1980, Đại hội nhấn mạnh: phát huy thắng lợi đã đạt được, quyết tâm phấn đấu tự túc được lương thực, chú trọng cả 2 vụ thu mùa và cả lúa, màu, khoai sắn, áp dụng có hiệu quả khoa học kỹ thuật, tận dụng hết đất đai, dần dần đưa cơ giới vào canh tác; đẩy mạnh các hoạt động văn hoá giáo dục, y tế, thể thao, thể dục; xây dựng dân quân du kích, công an, gắn liền với kinh tế, quốc phòng, sẵn sàng chiến đấu, giữ vững trật tự trị an thôn xóm trấn át kịp thời dư luận điều gây mất trật tự làm hoang mang trong quần chúng; tăng cường củng cố chính quyền, các đoàn thể quần chúng và 3 lĩnh vực HTX, phát huy cao quyền làm chủ tập thể của nhân dân, củng cố và bồi dưỡng đảng viên xây dựng các chi bộ, Đảng bộ vững mạnh toàn diện.

            Đại hội đề ra một số mục tiêu chủ yếu:

             - Cày cấy lúa màu đạt và vượt 558 ha, năng xuất hai vụ 28 tạ/1ha. Tổng sản lượng lương thực đạt 1.196 tấn, trong đó lúa 896 tấn, màu quy thóc 200 tấn, sắn đạt 60 tạ/ha, khoai 70 tạ ha;

             - Chăn nuôi lợn đạt 1.400 con, trong đó hợp tác xã 120 con; Trâu bò        đạt 450 con, trong đó hợp tác xã 100 con;

        - Củng cố 3 ngành hợp tác xã - nhất là HTX nông nghiệp.

       Thực hiện Nghị quyết Đại hội đề ra, Đảng uỷ và cán bộ đã chỉ đạo các đội các, các xóm  phát huy cho được tính cần cù nhẫn nại siêng năng của dân để đẩy mạnh sản xuất. Qua thực tế làm ăn vừa qua theo kiểu khoán cũ, xã viên sản xuất theo kiểu dàn hàng ngang bao cấp, khoán cũng khoán chung, người làm  nhiều, người làm ít, điểm được tính đều như nhau, việc khoán như vậy không động viên được tính tích cực, cần cù của xã viên, không cố gắng tranh thủ, tận dụng hết thời gian và khả năng lao động của từng người trong gia đình nên đã mạnh dạn tiến hành một cách khoán mới như: chia ô, chia đám, chia sào, rồi các hộ bắt thăm. Một điều rất phấn khởi, từng hộ đã tận dụng hết lao động của lao động của gia đình và tận dụng hết công cụ sản xuất vận chuyển nên đã giảm được một nửa thời gian.

                 Ngày 17-4-1980, Đảng bộ xã Sơn Bình tổ chức Đại hội khóa XII (nhiệm kỳ 1980-1981). Tham dự Đại hội đã có 212 đảng viên trong tổng 254 đảng viên, đồng chí Toàn cán bộ tổ chức Huyện uỷ về tham dự và chỉ đạo Đại hội.

       Đồng chí Toàn báo cáo chủ trương của Tỉnh uỷ về việc tăng cường cán bộ cấp trên xuống cơ sở, trước tiên làm công tác chủ chốt ở xã cho nên Huyện uỷ cử đồng chí Cù Xuân Nhã cán bộ của cơ quan pháp chế, quê xã Sơn Bình về nhận nhiệm vụ Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã và sinh hoạt Đảng tại Đảng bộ xã.

           Đại hội đã thảo luận, đánh giá về tình hình thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ XI, các nghị quyết của Trung ương, của tỉnh và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XIII. Đại hội đã quyết nghị những nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ là: căn cứ tình hình phát triển kinh tế - xã hội của địa phương và những chỉ tiêu, nhiệm vụ trọng tâm mà Tỉnh ủy, Huyện ủy đề ra, Đảng ủy, chính quyền đã xem xét, đánh giá thực lực của xã để từ đó tập trung lãnh đạo nhân dân thực hiện Khoán 100, phát triển sản xuất nông nghiệp, khuyến khích nhân dân làm chủ sản xuất, nhằm tăng năng suất và hiệu quả sản xuất.

            Đại hội bầu Ban Chấp hành mới gồm 15 ủy viên. Sau Đại hội và được Huyện uỷ công nhận, Đảng uỷ họp phiên họp đầu tiên vào ngày 6-5-1980, phân công chức vụ chủ chốt trong Ban Chấp hành Đảng uỷ như sau:

  • Đồng chí Lê Triêm - Bí thư đảng Ủy;
  • Đồng chí Cù Xuân Nhã - Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã;
  • Đồng chí Nguyễn Phi Khanh - Chủ nhiệm Hợp tác xã;
  • Đồng chí Lê Tôn Báo - Phụ trách về ruộng đất;
  • Đồng chí Nguyễn Văn Liêu - Xã đội trưởng;
  • Trần Thị Lý - Chủ tịch Hội phụ nữ;
  • Trần Ngọc Sơn - Bí thư Đoàn Thanh Niên;

          Sau Đại hội, Đảng uỷ chỉ đạo HTX nông nghiệp tiến hành đại hội xã viên để thông qua công tác thu hoạch ăn chia năm 1980 và vụ chiêm 1981; Đại hội xã viên bầu Ban quản trị gồm: Đồng chí Nguyễn Phi Khanh - Chủ nhiệm; Lê Tôn Báo - Phó chủ nhiệm; Nguyễn Nhiên - Phụ trách giao thông thuỷ lợi; Cao Bát - Phụ trách ruộng đất.

         Sau một thời gian nhập 3 đội 1, đội 8, đội 9 thành một, xuất phát từ thực tiễn, Đại hội nhận thấy địa phương mình đất ruộng nhiều, xã viên đông khó lãnh đạo nên Đại hội quyết định chia lại như cũ, đội 1 thành 1A, 1B; đội 8 thành 8A, 8B, đội 9 thành 9A, 9B. Như vậy, Hợp tác xã trở lại 13 đội.

     Cũng trong thời gian này Nhà nước có kế hoạch làm Quốc lộ 8 mới đi từ thị trấn Phố Châu đến thị trấn Đức Thọ để tránh lụt và con đường lại ngắn hơn. Đoạn qua xã Sơn Bình sẽ đi qua từ Nầm (Sơn Châu) qua chân núi Mồng Gà  giáp xã Sơn Trà dài hơn 2 km. Nắm được chủ trương của cấp trên, Đảng ủy và Ủy ban chủ trương vận động một số hộ ở các xóm thấp lụt dời lên ở dọc hai bên đường. Kết quả đã có 70 hộ tự nguyện dời lên ở, xã đã giải quyết các hộ vùng trong lên vùng chân núi Sắn Trà, Phúc Nậy. Vùng ngoài lên các chân núi Mồng Gà, Đùng Đùng và các hộ lên chia vườn cắm mốc, mỗi vườn 3 sào rồi bắt thăm. Sau khi quy hoạch xong các hộ lần lượt chuyển gia đình lên. Bước sang năm 1982, 70 hộ đã thành một xóm gọi là xóm 14.

    II. THỰC HIỆN CƠ CHẾ QUẢN LÝ MỚI TRONG SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP (1981 - 1985)

  1. Sơn Bình thực hiện cơ chế quản lý mới

     Bước vào thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ 3 (1981-1985) , đất nước ở trong tình hình vừa có hòa bình để xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa phải đối phó với chiến tranh phá hoại nhiều mặt của kẻ địch. Tình hình đó đòi hỏi Đảng ta phải đề ra những nhiệm vụ và xác định các biện pháp thích hợp để đưa đất nước thoát ra khỏi tình trạng trì trệ, ổn định và tiếp tục phát triển. Trung ương Đảng đã tổng kết thực tiễn để tìm tòi đổi mới tư duy trên nhiều lĩnh vực, trước hết là tư duy kinh tế, xóa bỏ những trói buộc của cơ chế cũ, mở đường cho sức sản xuất phát triển, giải quyết những khó khăn, bức bách của đời sống nhân dân, nhất là vấn đề lương thực, thực phẩm.

Đảng bộ và nhân dân Sơn Bình bước vào thực hiện Kế hoạch Nhà nước 5 năm lần thứ 3 trong hoàn cảnh hết sức khó khăn, nhất là giải quyết vấn đề lương thực cho nhu cầu cuộc sống và làm nghĩa vụ nhà nước. Hậu quả của thời tiết hạn hán kéo dài từ vụ Đông Xuân 1980-1981 đến vụ mùa năm 1981 chưa kịp khắc phục, làm cho vấn đề tự túc lương thực càng khó khăn thêm.

Đứng trước tình hình đó, Ban Chấp hành Đảng bộ xã đã tổ chức các cuộc họp nhằm quyết định những phương hướng tháo gỡ khó khăn để lãnh đạo nhân dân tiếp tục thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế - xã hội trong kế hoạch nhà nước 5 năm. Trước hết là tổ chức cho cán bộ, đảng viên học tập, quán triệt Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 (khóa IV), Chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về "Cải tiến công tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp", tập trung lực lượng cho sản xuất để giải quyết những vấn đề về lương thực. Trên cơ sở đó, lãnh đạo HTX nông nghiệp tiến hành phân loại ruộng đất thành hạng và định năng suất cho từng hạng và lập phương án khoán gồm 8 khâu. Trong đó, HTX làm 5 khâu, từ khâu cày bừa đến khâu gieo cấy, xã viên làm 3 khâu là chăm sóc, thu hoạch và giao nộp sản phẩm.

Nhờ có cơ chế, chính sách mới của Đảng và nhà nước mà tập trung lực lượng vào sản xuất nông nghiệp, mở ra một thời kỳ mới là vụ Đông Xuân năm 1981-1982 và vụ mùa năm 1982 giành thắng lợi toàn diện cả về diện tích gieo trồng lẫn năng suất và tổng sản lượng lương thực, tạo được động lực cho nhân dân hăng say, hồ hởi lao động sản xuất với một tâm thế mới.

    Ngày 21-12-1981, Đại hội Đảng bộ xã Sơn Bình khóa XIII, nhiệm kỳ (1981-1982) được tiến hành tại Hội trường xã.

Đại hội đã đánh gía một cách nghiêm túc, việc lãnh đạo thực hiện Nghị quyết XII và các nghị quyết của cấp trên. Đồng thời đề ra những nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ tới:

Tiếp tục quán triệt sâu sắc các quan điểm, chủ trương của Trung ương Đảng, Đảng bộ tỉnh và huyện, nắm vững tình hình thực tế của địa phương, phát huy tinh thần làm chủ xã hội chủ nghĩa, ra sức phấn đấu để giải quyết các vấn đề kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng, nâng cao đời sống cho nhân dân; thực hiện thâm canh cây trồng, phát triển chăn nuôi; củng cố tổ chức Đảng, chính quyền và các tổ chức đoàn thể, xây dựng Đảng bộ trong sạch vững mạnh.   

Mục tiêu chung được xác định là: Tập trung đẩy mạnh mặt trận chính là sản xuất lương thực, thực phẩm, tiến tới có lương thực đủ ăn, chấm dứt vấn đề thiếu đói; nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, đảm bảo các nhu cầu tối thiểu về các mặt hàng thiết yếu như vải mặc, thuốc chữa bệnh, dầu thắp sáng, đồ dùng cho học sinh; củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, nâng cao chất lượng kế hoạch hóa, hoàn thiện cơ chế khoán sản phẩm, khuyến khích phát triển kinh tế hộ gia đình, tăng cường công tác quản lý thị trường, chống đầu cơ, buôn lậu, mua bán phá giá, ổn định tình hình lưu thông; cố gắng tiến thêm một bước về xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật phục vụ sản xuất và đời sống; đẩy mạnh công tác thủy lợi, giao thông; chú trọng các ngành tiểu thủ công nghiệp; tăng cường công tác trị an, quốc phòng, bảo vệ vững chắc địa bàn; không ngừng giáo dục và nâng cao trình độ cho cán bộ, đảng viên về chính trị lý luận và hoạt động thực tiễn, kiên quyết chống lại tư tưởng bảo thủ, cục bộ, hẹp hòi, tùy tiện, thoái hóa biến chất, thiếu mạnh dạn tiếp thu cái mới, mê tín dị đoan. Cải tiến nội dung và nâng cao chất lượng sinh hoạt Đảng.   

Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành gồm 15 đồng chí. Đồng chí Lê Triêm tiếp tục được bầu giữ chức vụ Bí thư Đảng ủy; đồng chí Cù Xuân Nhã được bầu giữ chức vụ phó Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã.

Những năm đầu thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ ba, thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ xã, Sơn Bình đã quyết tâm trong lao động sản xuất và các mặt công tác. Đây cũng là thời gian xã nhà bắt đầu thực hiện những đổi mới cục bộ theo tinh thần các nghị quyết, chỉ thị của Đảng.

Công tác đảm bảo trị an, quốc phòng so với nhiệm kỳ trước có nhiều tiến bộ đáng kể. Tổ chức tập dân quân mỗi năm một lần. Bắt đầu xây dựng mạng lưới công an viên ở các đội sản xuất để cùng với công an xã quản lý trật tự trị an ở địa phương. Trong hai năm 1981-1982, xã đã giao 28 quân nhân, đạt chỉ tiêu trên giao.

Mặc dù đạt được một số kết quả, nhưng nhìn chung Sơn Bình còn nhiều hạn chế, thiếu sót. Nông nghiệp thâm canh chưa đồng đều, năng suất các loại cây trồng còn thấp. Sản lượng lương thực không đạt chỉ tiêu đã đề ra. Các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp chưa được quan tâm đúng mức, việc giải quyết công ăn việc làm cho lực lượng học sinh tốt nghiệp phổ thông, bộ đội phục viên chưa linh hoạt. Văn hóa, giáo dục, y tế chuyển biến chậm.

Trong xây dựng quan hệ sản xuất, Sơn Bình tiếp tục củng cố HTX quy mô toàn xã, lấy đội sản xuất làm cơ sở. Thực hiện chế độ khoán sản phẩm đến nhóm lao động trong đội và người lao động. Tuy vậy, việc thực hiện Nghị quyết 6 và Chỉ thị 100 còn bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém, đó là: việc khoán cho đội sản xuất có chiều hướng khoán trắng, buông lỏng quản lý nên gây cho HTX lỗ vốn, chưa đáp ứng lợi ích của nhà nước và HTX. Một số hộ xã viên nhận khoán nhưng giao nộp sản phẩm không đầy đủ nên nợ nần dây dưa không trả đươc, một số còn chiếm ruộng đất của HTX mà không nộp thu nộp thuế.

Quán triệt hai nhiệm vụ chiến lược do Đại hội toàn quốc lần thứ V đề ra là "xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội - sẵn sàng chiến đấu bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa". Đảng bộ Sơn Bình đã lãnh đạo nhân dân tiếp tục phát huy  những thành tích đạt được, phấn đấu thực hiện thành công các mục tiêu kinh tế - xã hội trên chặng đường tiếp theo.

Trên tinh thần đó, ngày 17-10-1982, Đại hội Đảng bộ xã Sơn Bình khóa XIV, nhiệm kỳ (1982-1985) diễn ra tại Hội trường xã. Đại hội khẳng định trong nhiệm kỳ qua, Đảng bộ đã làm được nhiều việc, nhưng nhìn chung, nền kinh tế - xã hội vẫn gặp nhiều khó khăn, chưa thoát khỏi khủng hoảng, thậm chí còn nặng nề hơn. Trong nhiệm kỳ tới, toàn Đảng bộ và nhân dân phải ra sức quyết tâm khắc phục khó khăn, hoàn thành chỉ tiêu phát triển kinh tế xã hội, tạo bước chuyển biến quan trọng trong sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân, phát triển văn hóa, giáo dục, giữ vững an ninh địa bàn, ổn định tình hình chính trị địa phương, củng cố tổ chức Đảng, chính quyền xã.

Đại hội đã bầu ra Ban chấp hành gồm 15 đồng chí. Đồng chí Lê Kính được bầu giữ chức vụ Bí thư Đảng ủy, đồng chí Cù Xuân Nhã - Phó Bí thư, Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã.      

        Sau Đại hội, Đảng ủy đã lãnh đạo nhân dân tập trung sản xuất, mặc dù năm 1983, sản xuất nông nghiệp Sơn Bình tuy gặp phải thời tiết không thuận lợi: Vụ Đông Xuân (1982-1983) mưa rét kéo dài, vụ chiêm lại nắng hạn gay gắt nhưng vấn đề tự túc lương thực cho nhân dân căn bản được giải quyết.

        Qua hai năm thực hiện Nghị quyết của Đại hội khóa XIV và các Nghị quyết, Chỉ thị của cấp trên. Tuy thời tiết không thuận lợi do nắng hạn, lụt lội xảy ra làm ảnh hưởng đến sản xuất, cây trồng và sinh hoạt của nhân dân, nhưng Đảng ủy đã biết phát huy tính tích cực của xã viên vận dụng các chủ trương của Trung ương và Tỉnh ủy, Huyện ủy triển khai thực hiện tốt Nghị quyết 100, từng bước khoán ruộng đất cho từng hộ, xa xấu trước, gần tốt sau. Đến năm 1982 đã hoàn thành Khoán 100 ruộng đất cho xã viên. Hợp tác xã đảm bảo 5 khâu, hộ xã viên 3 khâu.

            Trong những năm 1982-1985, kết quả sản xuất nông nghiệp và chăn nuôi đạt kết quả, có mảnh đạt 50-70% năng suất, đàn gia súc gia cầm đều tăng. Nhờ vậy mà đời sống kinh tế gia đình nào cũng tăng, tạo điều kiện cho nhân dân mua sắm thêm vật dùng, xây sân gạch làm nhà mới, có gia đình làm nhà lợp ngói.

      Về giao thông thủy lợi, ngoài việc tu sửa tôn tạo đường trục, đập nước và còn xây mương sử dụng nước ở máy bơm cho cánh đồng Cồn Răng và cánh đồng Choi.

Về mặt tổ chức củng cố chính quyền đoàn thể đã làm tốt công tác bầu cử Hội đồng nhân dân xã và huyện và sau bầu ban quản lý Hợp tác xã

Nổi nhất là công tác xây dựng Đảng: Ba năm qua Đảng bộ đã tổ chức tốt việc học tập, quán triệt các chỉ thị, Nghị quyết của cấp trên nên đảng viên đã thực sự sâu sát quần chúng chỉ đạo kịp thời nhân dân thực hiện Chỉ thị 10, Chỉ thị 100 của Trung ương, tổ chức học tập Chỉ thị 83, các đảng viên đã thành khẩn làm kiểm thảo có 208 đảng viên viết bản tự kiểm thảo còn lại tự khai thảo bằng lời, nhờ vậy mà trình độ, trách nhiệm đảng viên được nâng cao, hoàn thành tốt nhiệm vụ và có hai năm Đảng bộ đều đạt Đảng bộ vững mạnh.

        Việc khám chữa bệnh ban đầu cho nhân dân được thực hiện tốt. Trạm y tế xã với 3 nhân viên, 3 Phòng mỗi năm đã khám cho hàng trăm người, đỡ đẻ thành công cho nhiều sản phụ. Cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch được tiến hành thường xuyên tỷ lệ sinh đẻ giảm nên đã hạ thấp tỷ lệ phát triển dân số dưới 02%. Hoạt động văn nghệ, thể dục, thể thao tiếp tục được duy trì và có sự phát triển.

        Công tác quốc phòng - an ninh cũng được Đảng bộ chỉ đạo thực hiện tốt. Năm nào xã cũng hoàn thành chỉ tiêu tuyển nghĩa vụ quân sự. Công tác huấn luyện lực lượng dân quân tự vệ được tiến hành thường xuyên và có hiệu quả hơn.

        Trong công tác xây dựng Đảng: Nhằm nâng cao tư tưởng, chính trị cho các chi bộ và đảng viên, Đảng bộ đã tổ chức sâu rộng học tập, quán triệt Nghị quyết 04 của Ban Chấp hành Trung ương. Qua các đợt sinh hoạt chính trị, toàn Đảng bộ có khoảng 80% đảng viên chuyển biến rõ nét về nhận thức tư tưởng. Phân loại đảng viên cuối năm, hầu hết cán bộ từ xã xuống cơ sở đều hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, 70% đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ, 25% hoàn thành nhiệm vụ.

        Nhìn lại 5 năm thực hiện cơ chế khoán mới trong nông nghiệp, Đảng bộ xã Sơn Bình đã lãnh đạo nhân dân đạt được một số kết quả trên tất cả các lĩnh vực. Sản xuất lương thực, chăn nuôi, thủ công nghiệp, xây dựng cơ bản, văn hóa giáo dục, quốc phòng, an ninh đều có bước phát triển. Đời sống vật chất và tinh thần của người dân khá hơn trước, một bộ phận nhân dân đã có tích lũy. Bên cạnh đó, xã cũng còn có những hạn chế: trước tiên trong Chỉ thị 100 đề ra người lao động mới đảm nhiệm 3 khâu cuối cùng trong sản xuất, còn 5 khâu hợp tác xã phụ trách, điều đó có nghĩa là thu nhập của người nông dân còn phụ thuộc nhiều vào hợp tác xã; mặt khác, mức khoán trên đồng ruộng còn do hợp tác xã quyết định và được điều chỉnh theo từng vụ, từng năm theo hướng ngày càng cao làm cho nông dân ít có điều kiện vượt khoán; động lực vượt khoán ngày càng giảm sút; hiện tượng rong công, phóng điểm, nhất là công ngoài khoán tràn lan, tình trạng đó đã gây ra tâm lý chán nản đối với người lao động. Từ thực tế đó có thể kết luận rằng: Dù có những điểm tiến bộ, tích cực nhưng nhìn chung Chỉ thị 100 vẫn chưa phát huy hết tinh thần tích cực lao động của nông dân trên đồng ruộng.

          Trên các lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp, phân phối lưu thông hàng hóa chưa phát huy hết nguồn lực sẵn có, đóng góp ngân sách Nhà nước còn thiếu. Cơ sở hạ tầng phục vụ cho việc dạy học, khám chữa bệnh cho nhân dân còn yếu.

Trải qua 10 năm sau hòa bình thống nhất đất nước, Đảng bộ Sơn Bình đã lãnh đạo nhân dân tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội với những thành tựu và hạn chế nhất định. Nhưng từ thực tế của phong trào, đội  ngũ cán bộ đảng viên đã được tôi luyện, trưởng thành và rút ra được những bài học kinh nghiệm quý báu để tiếp tục lãnh đạo toàn dân Sơn Bình bước sang thời kỳ tiếp theo - thời kỳ đổi mới đất nước.

        II. SƠN BÌNH TRÊN CON ĐƯỜNG ĐỔI MỚI, PHÁT TRIỂN, HỘI NHẬP (1986 - 2015)

        1. Đảng bộ lãnh đạo nhân dân bước đầu thực hiện đường lối đổi mới của Đảng (1986 - 1991)

Trong 2 ngày 30-4 và 1-5-1985, Đảng bộ xã Sơn Bình tổ chức Đại hội khóa XIV, nhiệm kỳ (1985-1987) tại Hội trường xã. Tham dự Đại hội có 296 đảng viên trong toàn Đảng bộ.

Đại hội đã tổng kết, đánh giá những kết quả thực hiện nhiệm kỳ qua và đề ra phương hướng, nhiệm vụ nhiệm kỳ này là: Tiếp tục thực hiện khoán 100, đẩy mạnh phát triển sản xuất, giải quyết vấn đề lương thực cho nhân dân.

Đại hội bầu Ban Chấp hành gồm 15 ủy viên, đồng chí Nguyễn Phi Khanh được bầu giữ chức vụ Bí thư Đảng ủy; đồng chí Nguyễn Quang phụ trách trực Đảng; đồng chí Lê Quýnh được bầu giữ chức vụ Phó Bí thư, Chủ tịch Ủy ban nhân dân.

        Qua 10 năm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa (1975-1985), Đảng bộ đã lãnh đạo toàn dân và toàn quân ta vừa kiến thiết, vừa thực nghiệm xây dựng, vừa tìm tòi thử nghiệm con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong quá trình thực hiện chủ trương đường lối, xã Sơn Bình đã đạt được một số thành tựu về chính trị, xã hội. Bên cạnh đó, gặp không ít khó khăn, hạn chế nhất là từ cuối năm 1985, cuộc cải cách giá - lương - tiền đã làm cho tình hình kinh tế ở Sơn Bình nói riêng cũng như cả nước nói chung bị khủng hoảng.

        Để khắc phục những tồn tại, khó khăn, tháng 12-1986, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI diễn ra tại Hà Nội. Đại hội đã đề ra đường lối đổi mới với quan điểm: Đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu chủ nghĩa xã hội mà làm cho mục tiêu ấy được thực hiện có hiệu quả bằng những quan điểm đúng đắn về chủ nghĩa xã hội... Đổi mới phải toàn diện, đồng bộ từ kinh tế, chính trị, xã hội đến tư tưởng. Trong đó lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm; đổi mới về chính trị phải vững chắc, không gây mất ổn định, đảm bảo sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng, xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, hình thành cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo phương thức hoạch toán kinh doanh. Quản lý kinh tế bằng biện pháp kinh tế, lấy hiệu quả kinh tế làm nguyên tắc phân phối sản phẩm cho người lao động. Về chính trị, ổn định tư tưởng, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy dân chủ, “lấy dân làm gốc” và “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Trong 5 năm trước mắt (1986-1990), cần tập trung sức người, sức của thực hiện bằng được những mục tiêu của 3 chương trình kinh tế: lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu.[27]

        Ngày 29-10-1986, Đại hội Đảng bộ Nghệ Tĩnh lần thứ XII được khai mạc tại thành phố Vinh, Đại hội đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ nhằm thực hiện tốt đường lối đổi mới của Đảng.

        Ngày 4-9-1986, Đại hội Đảng bộ huyện Hương Sơn khóa XV được tổ chức đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ triển khai kế hoạch 5 năm 1986-1991 là:

        - Không ngừng khai thác tiềm năng hiện có của một huyện trung du, đổi mới mạnh mẽ cơ cấu sản xuất theo hướng nông, lâm, công nghiệp kết hợp, tập trung mọi cố gắng cho sản xuất nông nghiệp phát triển toàn diện.

        - Ra sức thâm canh cây lương thực, cây công nghiệp xuất khẩu, phấn đấu tự trang trải về nhu cầu lương thực, thực phẩm, tăng nhanh khối lượng và giá trị hàng xuất khẩu để nhập khẩu tư liệu sản xuất và hàng tiêu dùng.

        - Chú trọng khuyến khích kinh tế gia đình phát triển đúng hướng. Nhanh chóng khắc phục những non kém trong phân phối lưu thông, tăng cường mở rộng địa bàn liên doanh liên kết, chủ động nắm hàng, nắm tiền để ổn định giá cả thị trường. Thực hiện tốt việc phân phối hàng hóa đến tận tay người tiêu dùng, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu phục vụ sản xuất và đời sống của nhân dân.

        - Vận dụng phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm” để đẩy nhanh tốc độ xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội. Trong đó ưu tiên những công trình phục vụ sản xuất và đời sống, đẩy mạnh sự nghiệp văn hóa, y tế, giáo dục một cách vững chắc phù hợp với điều kiện kinh tế.

        - Không ngừng củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.

        Dưới ánh sáng của Nghị quyết Đại hội các cấp, Đảng bộ xã Sơn Bình đã lãnh đạo nhân dân mạnh dạn đổi mới cơ cấu kinh tế, phân công lại lao động, tận dụng thế mạnh đất đai để phát triển sản xuất; chú trọng đầu tư khoa học kỹ thuật để thâm canh, tăng vụ; đổi mới cơ chế quản lý và nâng cao chất lượng khoán bước đầu đạt được những thành tựu cơ bản là:

        Trong nông nghiệp: Đảng bộ đã xác định nông nghiệp là mặt trận hàng đầu nên đã lãnh đạo nhân dân chuyển hướng bố trí cây trồng có năng suất cao và mùa vụ thích hợp để chủ động tránh được những bất thuận của thời tiết. Hợp tác xã đã vận động xã viên trồng xen tăng vụ, thực hiện các quy trình trong sản xuất thâm canh. Nhờ đó, năng suất cây trồng tăng, lúa đạt .....tấn/ha, khoai lang đạt .....tấn/ha.

        Chăn nuôi cũng có bước phát triển. Tổng  đàn trâu, bò có .....con, ...... lợn, gia cầm gà, vịt không ngừng tăng.

        Đi đôi với việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, mùa vụ, công tác thủy lợi cũng được Đảng bộ quan tâm. Hệ thống kênh mương nội đồng phục vụ cho việc tưới tiêu được củng cố. Từ năm 1985-1986, xã đã tu sửa hàng chục km kênh mương nội đồng phục vụ sản xuất.

        Trong lâm nghiệp, thực hiện chủ trương của Đảng bộ huyện, xã Sơn Bình đã trồng mới… ha rừng, nạn chặt phá rừng bữa bãi được ngăn chặn.

        Các hoạt động giáo dục, y tế có nhiều đổi mới. Các thầy cô giáo đã biết gắn nhà trường với kinh tế - xã hội, kết hợp chặt chẽ với dạy chữ, dạy nghề, dạy người. Đối với y tế, thực hiện công tác phòng, chữa bệnh bằng phương pháp đông, tây y kết hợp.

         Tháng 5-1987, Đại hội Đảng bộ xã Sơn Bình khóa XV (nhiệm kỳ 1987-1990) được tổ chức tại Hội trường xã. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 13 ủy viên. Đồng chí Nguyễn Nhiên được bầu làm Bí thư kiêm Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, đồng chí Nguyễn Văn Lương - Phó Bí thư trực Đảng.

        Trong những năm đầu thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, ở Sơn Bình bước đầu đạt được một số thành tựu, song vẫn còn gặp phải nhiều nhược điểm, thiếu sót: Chỉ thị “100” của Ban Bí thư Trung ương sau một thời gian ra đời đã phát huy tác dụng làm thay đổi bước đầu cơ chế quản lý. Tuy nhiên, các hợp tác xã vẫn bị ràng buộc trong tổng thể cơ chế tập trung quan liêu; ruộng đất bị chia manh mún, năng suất lao động chưa cao. Trước tình hình đó, ngày 5-8-1988, trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm chỉ đạo khoán 100/CT-TW, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 10/NQ-TW về việc giao ruộng đất cho nông dân sử dụng lâu dài, trực tiếp nhận khoán với hợp tác xã không qua khâu trung gian. Cơ chế khoán 10 đã thực sự giải phóng sức lao động ở nông thôn, giải quyết hợp lý mối quan hệ giữa 3 lợi ích: Nhà nước, tập thể và người lao động. Đây được xem là bước “đổi mới về quản lý kinh tế nông nghiệp”, trong đó hợp tác xã là đơn vị kinh tế tự chủ, tự quản; hộ gia đình, xã viên là đơn vị nhận khoán với hợp tác xã.

        Trên cơ sở chỉ đạo của Huyện ủy, xã Sơn Bình đã tiến hành phân khoảnh, định hạng ruộng đất cho từng cánh đồng sao cho hợp lý; giao khoán cho từng hộ xã viên trên cơ sở bảo đảm hài hòa 3 lợi ích: người lao động, hợp tác xã và Nhà nước; ổn định ruộng đất cho từng hộ trong nhiều năm để nông dân yên tâm đầu tư thâm canh; tổ chức sản xuất, quản lý điều hành hợp lý bằng cách phân định các khâu giữa đội sản xuất và hộ xã viên. Sau vụ mùa và vụ chiêm năm 1988, thực hiện khoán 10 đạt được nhiều thành tựu nhưng cũng tồn tại một số khuyết điểm như: ruộng chia vẫn còn manh mún; phương thức chia còn mang tính bình quân lao động, tình trạng mất công bằng trong nhận khoán giữa hộ này với hộ khác, đội này với đội khác còn tồn tại. Từ thực tế đó, tháng 12-1988, ban lãnh đạo xã Sơn Bình đã tiến hành bổ sung vào chủ trương khoán gọn để phù hợp với tình hình thực tế. Nhờ đó, hầu hết diện tích đất ở Sơn Bình được phân hạng, định mảnh phù hợp, đúng với nguyên tắc và giao khoán đến tận nhân dân, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân.

        Công tác chăn nuôi theo cơ chế mới đã thúc đẩy đàn lợn, trâu, bò tăng nhanh. Một số hộ gia đình trước đây chưa hề chăn nuôi nay lại xem chăn nuôi là nghề chính. Đời sống nhân dân có nhiều cải thiện, sản phẩm dư thừa đem ra trao đổi ở thị trường ngày càng nhiều.

        Trong lâm nghiệp, Đảng bộ xã thực hiện việc giao đất, giao rừng một cách triệt để.

        Có thể nói, từ khi bắt đầu thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nghị quyết 10 về khoán mới trong nông nghiệp, niềm tin, sự phấn khởi trong nội bộ nhân dân tăng lên. Việc áp dụng các tiến bộ về khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp đã trở nên phổ biến đối với người nông dân. Một số giống lúa mới như IR1820, CR203, Bao thai lùn, nếp ngắn ngày được sử dụng đại trà thành giống chủ lực. Các biện pháp thâm canh, phòng trừ sâu bệnh, sử dụng phân vô cơ…được các hộ xã viên tự giác thực hiện ngày một tăng. Một số công trình thủy lợi được xây dựng. Với những biện pháp đồng bộ đã góp phần đưa năng suất lúa tăng lên đạt 2,5 tấn/ha.

        Các ngành nghề khác phát triển nhanh và đa dạng gồm: xay xát, vận tải cơ giới, máy cày

        Về văn hóa - giáo dục: không ngừng được quan tâm, đầu tư, cơ sở vật chất được đầu tư nâng cấp, làm mới phục vụ cho nhu cầu dạy và học.   

        Công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình và vệ sinh, y tế được chú ý. Trong giai đoạn này, Sơn Bình cùng cả nước đang phải đối phó với tình trạng bùng nổ dân số. Vì thế, công tác tuyên truyền, vận động mọi người không sinh con thứ 3 diễn ra sôi nổi với các khẩu hiệu “dù gái hay trai chỉ hai là đủ” hoặc “hãy dừng lại ở hai con để nuôi dạy con cho tốt”; dùng các biện pháp như đặt vòng, dùng bao cao su, thắt ống dẫn trứng…; tổ chức khen thưởng, kỷ luật nghiêm khắc. Nên tỷ lệ tăng dân số giảm xuống rõ rệt. Hàng năm, số người sinh con thứ 3 trở lên chỉ khoảng 25 - 30%.

        Trên lĩnh vực quốc phòng - an ninh: xuất phát từ tình hình thế giới và trong nước có nhiều biến động, Đảng bộ đã triển khai chương trình xây dựng đơn vị “An toàn làm chủ, sẵn sàng chiến đấu” lên một bước mới đạt kết quả tốt. Lực lượng dân quân của xã tổ chức luyện tập thường xuyên. Trong thời gian này, lực lượng quân sự và công an của xã đạt đơn vị khá toàn huyện. 

        Về công tác xây dựng Đảng, Đảng ủy đã chú trọng các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng đảng viên, đổi mới các nội dung sinh hoạt Đảng như: tổ chức học tập, quán triệt các Nghị quyết của Trung ương, Tỉnh ủy và Huyện ủy; tổ chức các buổi sinh hoạt chính trị, tư tưởng trước những biến động của tình hình thế giới vào những năm 1986-1989; xử lí nghiêm túc các biểu hiện sai trái vi phạm chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước của một số đảng viên. Việc xếp loại đảng viên được thực hiện chặt chẽ hơn. Chính quyền và các đoàn thể hoạt động có hiệu quả cao hơn, chất lượng hơn, hợp tác xã chuyển sang kinh doanh dịch vụ với nhiều biện pháp hoạt động tốt, phù hợp với cơ chế và tình hình mới.

        Tháng 4-1990, Đại hội Đảng bộ xã Sơn Bình khóa XVI, nhiệm kỳ (1990 - 1992) diễn ra tại Hội trường xã. Trên cơ sở tổng kết những thành tựu và tồn tại nhiệm kỳ qua, từ đó đề ra phương hướng, nhiệm vụ nhiệm kỳ này là: Tăng cường sức mạnh đoàn kết, thống nhất trong Đảng bộ và nhân dân; giữ vững ổn định về chính trị, tư tưởng; đẩy mạnh phát triển kinh tế, nâng cao đời sống; tăng cường công tác quốc phòng, an ninh, giữ vừng các mục tiêu xã hội, y tế, giáo dục.  Đại hội đã bầu Ban Chấp hành gồm 15 ủy viên, đồng chí Nguyễn Nhiên tiếp tục được Đại hội tín nhiệm bầu làm Bí thư kiêm Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, đồng chí Nguyễn Văn Lương làm Phó Bí thư trực Đảng.

        2. Sơn Bình trên con đường thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa (1991 - 2000)

          Trong tình hình đất nước cũng như thế giới có nhiều biến động, Đảng bộ đang tập trung lãnh đạo nhân dân ổn định tư tưởng, tập trung phát triển sản xuất thì từ ngày 24 đến ngày 26-6-1991, Đại hội toàn quốc của Đảng lần thứ VII khai mạc tại Hà Nội. Đại hội đã thông qua “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”, “Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000” với mục tiêu đưa nước ta thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo điều kiện phát triển nhanh vào đầu thế kỷ XXI.

        Từ ngày 24 đến ngày 27-12-1991, Đại hội Đảng bộ huyện Hương Sơn được tổ chức đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu của Đảng bộ trong nhiệm kỳ này là: Nêu cao tinh thần tự lực, tự cường, khắc phục khó khăn, khai thác mọi nguồn lực, tập trung sức lực phát triển nông nghiệp toàn diện, từng bước thực hiện mô hình nông - lâm - công nghiệp - dịch vụ, mở mang một số ngành nghề mới, giải quyết việc làm và đời sống ổn định. Đẩy mạng hoạt động văn hóa, xã hội, nâng cao chất lượng giáo dục, y tế, hạ tỷ lệ phát triển dân số. Giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, làm tốt nhiệm vụ quốc phòng.

        Thực hiện nhiệm vụ mới, Đảng bộ tập trung lãnh đạo từng mặt cụ thể:

        - Về kinh tế: Năm 1991, để phù hợp với tình hình theo chủ trương chung, hợp tác xã nông nghiệp được chuyển đổi từ mô hình quản lý điều hành tất cả các hoạt động của sản xuất sang đơn vị dịch vụ. Bộ máy hành chính từ nay đặt dưới sự quản lý trực tiếp của Ủy ban nhân dân xã. Sau khi chuyển đổi mô hình hợp tác xã, Đảng bộ tập trung vào việc phát huy quyền làm chủ trong sản xuất kinh doanh của hộ gia đình; đầu tư thâm canh tăng vụ, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, phát triển kinh tế VAC, gắn nông nghiệp với lâm nghiệp. Nhờ đó, tổng diện tích canh tác đạt, năng suất đạt 2,3 tấn/ha, diện tích lạc, ngô, đậu tăng lên. Tổng sản phẩm quy thóc đạt 755 tấn. Bình quân lương thực đầu người đạt 324 kg/năm. Kinh tế vườn và chăn nuôi có sự chuyển biến tích cực, đến năm 1992, xã có tổng vài trăm vườn hộ trồng cây ăn quả cho thu nhập cao.

        - Đàn gia súc, gia cầm tăng cả về số lượng và chất lượng. Tổng đàn lợn có …. con, đàn trâu, bò có …. con. Lâm nghiệp có bước phát triển tốt, công tác trồng rừng, bảo vệ, khoanh nuôi phủ xanh đất trống đồi trọc đạt kết quả tốt.

        - Việc xây dựng cơ sở hạ tầng được nâng lên một bước, phục vụ tốt yêu cầu sản xuất và đời sống nhân dân. Đảng bộ cùng chính quyền đã chỉ đạo nhân dân tiến hành nạo vét kênh mương nội đồng, rải sỏi cấp phối các mặt đường thôn xóm, tu sửa phòng học, mua sắm thêm trang thiết bị phục vụ dạy và học cho con em trong xã.

        - Về văn hóa, xã hội được tăng cường nhằm nâng cao đời sống tinh thần cho nhân dân. Công tác vệ sinh phòng bệnh, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân cũng như công tác dân số kế hoạch hóa gia đình, bảo vệ bà mẹ và chăm sóc trẻ em được các ngành, các cấp quan tâm. Các chương trình tiêm chủng mở rộng, y tế dự phòng được thực hiện tốt. Chất lượng khám chữa bệnh có tiến bộ. Công tác truyền thông dân số kế hoạch hóa gia đình được triển khai sâu rộng tận các xóm, góp phần hạ tỷ lệ tăng dân số.

        - Tình hình quốc phòng - an ninh trật tự trên địa bàn xã Sơn Bình được giữ vững. Xã đã xây dựng có hiệu quả nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân dựa trên cơ sở xây dựng xã an toàn làm chủ, sẵn sàng chiến đấu, tiến hành tập duyệt các phương án tác chiến. Thực hiện nghiêm chỉnh các pháp lệnh của Nhà nước, không để xẩy ra các điểm nóng; ngăn chặn và giải quyết các mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, đẩy lùi các tệ nạn xã hội. Xây dựng khu vực phòng thủ, tổ chức huấn luyện, diễn tập, xây dựng lực lượng dân quân tự vệ thường trực và dự bị động viên. Hàng năm, xã hoàn thành việc tuyển thanh niên nhập ngũ và thực hiện tốt công tác chính sách hậu phương quân đội.

        - Công tác xây dựng Đảng, hệ thống chính trị trong suốt nhiệm kỳ được quan tâm đúng mức nhằm nâng cao trình độ chính trị, tư tưởng, quan điểm lập trường, kiên định mục tiêu lý tưởng cách mạng trước tình hình biến động trong nước cũng như thế giới. Duy trì chặt chẽ chế độ sinh hoạt, học tập chính trị cho các cán bộ, đảng viên. Bình xét thành tích cuối nhiệm kỳ, Đảng bộ có 30% chi bộ vững mạnh, 25%  chi bộ trung bình, còn lại chi bộ khá, không có chi bộ yếu kém. Đảng viên đủ tư cách hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chiếm 20%, hoàn thành tốt nhiệm vụ 70%, 10% đảng viên đủ tư cách hoàn thành nhiệm vụ. Chính quyền hoàn thành khá, các đoàn thể hoàn thành tốt nhiệm vụ. Chất lượng đội ngũ đảng viên được nâng lên cả trình độ và năng lực, phẩm chất đạo đực và lối sống. Công tác kết nạp đảng viên mới có nhiều tiến bộ. Từ 1991-1992, Đảng bộ xã đã bồi dưỡng được 8 đối tượng Đảng, kết nạp được 6 đảng viên mới. Công tác cán bộ đã được thực hiện theo phương án ổn định và đổi mới từng bước phù hợp với tình hình của xã. Công tác kiểm tra Đảng được chăm lo, kịp thời xử lý các đảng viên vi phạm, giải quyết tốt các đơn thư tố cáo đảng viên, góp phần nâng cao sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng.

        Ngày 28-8-1992, Đại hội Đảng bộ xã Sơn Bình khóa XVII, (nhiệm kỳ 1992-1995) diễn ra tại Hội trường xã. Đại hội đã đánh giá tổng kết những thành tựu đạt được cũng như những thiếu sót, hạn chế và rút ra nhiều bài học kinh nghiệm về công tác lãnh đạo, điều hành, công tác vận động quần chúng đồng thời đề ra phương hướng, nhiệm vụ nhiệm kỳ tới. Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 13 ủy viên, đồng chí Nguyễn Văn Lương - Bí thư Đảng ủy, đồng chí Lê Tôn Báo - Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, đồng chí Nguyễn Nhiên - Phó Bí thư trực Đảng.

        Sau Đại hội, Đảng bộ đã lãnh đạo nhân dân tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, đưa phong trào ở Sơn Bình phát triển đi lên.

        Về kinh tế: tập trung chuyển đổi cơ cấu mùa vụ, giống cây trồng, vật nuôi, đầu tư thâm canh, tăng vụ, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, phát triển kinh tế VAC nhằm giải quyết cơ bản nhu cầu về lương thực, thực phẩm cho nhân dân. Nhờ đó, tổng sản lượng lương thực quy thóc tăng lên, năm 1995 đạt 1.100 tấn, lương thực quy thóc bình quân theo đầu người đạt 360 kg/người/năm. Sản lượng nông sản hàng hóa như: lạc, đậu xanh, ngô cũng tăng hơn trước.

        Về Lâm nghiệp: từ khi thực hiện Nghị định 64/CP (27-9-1993) của Chính phủ về việc giao đất, giao rừng cho nhân dân quản lý, nuôi trồng nên diện tích đất trống đồi núi trọc giảm hẳn. Kinh tế vườn có sự chuyển biến, đến năm 1995, toàn xã có nhiều hộ có vườn cây ăn quả, …

        Đàn gia súc, gia cầm tăng cả về số lượng và chất lượng. Tổng đàn trâu bò trong xã có 550 con; tổng đàn lợn 1.000 con.

        Giá trị công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp tăng trong cơ cấu nền kinh tế. Các hoạt động dịch vụ và thương mại có bước phát triển. Công tác tài chính có nhiều cố gắng, việc quản lý nguồn thu có tiến bộ. Mặt khác, trong năm 1993, Đảng bộ xã Sơn Bình tổ chức giao đất ổn định lâu dài cho nhân dân quản lý tạo được niềm tin hơn nữa của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước ta.

        Hệ thống cơ sở hạ tầng được nâng lên một bước, phục vụ tốt yêu cầu sản xuất và đời sống nhân dân. Thu ngân sách trong nhiệm kỳ đat 117 triệu đồng. Đầu tư hoàn thành 3 đường điện cơ bản; 4 phòng học và 2 văn phòng với tổng giá trị trên 110 triệu đồng. Hệ thống giao thông nông thôn, các kênh mương được tu sửa, nâng cấp.

        Về văn hóa, xã hội được Đảng bộ coi trọng. Xã Sơn Bình đã hoàn thành phổ cập giáo dục bậc tiểu học. Chất lượng giáo dục, đào tạo được nâng lên, học sinh giỏi các cấp ngày càng tăng; tỷ lệ học sinh đậu vào các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp chiếm tỷ lệ 17% tổng số học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông. Công tác vệ sinh phòng bệnh, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân và công tác kế hoạch hóa gia đình, bảo vệ bà mẹ và chăm sóc trẻ em được quan tâm. Các chương trình tiêm chủng mở rộng, y học dự phòng được thực hiện tốt. Công tác truyền thông dân số, kế hoạch hóa gia đình được triển khai tận thôn xóm, góp phần hạ tỷ lệ tăng dân số từ 2,1% (1993) xuống 1,4% (1995).

        Các chính sách xã hội nhất là chính sách đối với các gia đình liệt sỹ, thương binh, gia đình có công với nước được thực hiện tốt. Các phong trào đền ơn đáp nghĩa, hoạt động từ thiện, nhân đạo đang trở thành nét đẹp trong lối sống của nhân dân.

        Công tác xây dựng Đảng, chính quyền và các đoàn thể có nhiều tiến bộ. Cấp ủy đã làm tốt công tác quán triệt các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chủ trương, chính sách của Nhà nước cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Chất lượng đảng viên ngày càng được nâng lên cả trình độ, năng lực, phẩm chất đạo đức, lối sống. Số lượng đảng viên được kết nạp hàng năm tăng.

        Bên cạnh những thành tựu đạt được xã còn tồn tại một số hạn chế như: Tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm, cơ sở vật chất còn nghèo chưa khai thác hết các tiềm năng sẵn có, kinh tế còn mang tính tự cung, tự cấp.

        Trước những thắng lợi quan trọng trên con đường thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Tháng 01-1996, Đảng bộ xã Sơn Bình tiến hành Đại hội khóa XVIII (nhiệm kỳ 1996-2000) tại Hội trường xã. Đại hội đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ nhiệm kỳ này là: tập trung khai thác mọi nguồn lực để phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, giữ vững an ninh quốc phòng, chăm lo công tác xây dựng Đảng. Đại hội bầu Ban Chấp hành gồm 15 ủy viên: Đồng chí Nguyễn Văn Lương tiếp tục được bầu làm Bí thư Đảng ủy, đồng chí Lê Tôn Báo tiếp tục được bầu làm Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, đồng chí ……………………….. - Phó Bí thư thường trực Đảng ủy.

        Sau Đại hội, Đảng bộ xã đã tập trung lãnh đạo nhân dân thực hiện nhiệm vụ đề ra. Trong nông nghiệp, lâm nghiệp, Đảng bộ chỉ đạo rà soát lại các quỹ đất lập kế hoạch giải quyết xong việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp cho hộ nông dân. Rừng và đất rừng có chủ quản lý kinh doanh theo dự án phát triển kinh tế. Tiến hành từng bước công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền nông lâm nghiệp bằng cách chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng chọn cây con có hiệu quả kinh tế cao; đưa nhanh tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông lâm nghiệp, trước hết là giống, ứng dụng công nghệ sinh học, sin hóa đàn bò, nạc hóa đàn lợn, thâm canh tăng năng suất, đảm bảo môi trường sinh thái. Đầu tư xây dựng, tu sửa các công trình thủy lợi nhằm giảm chi phí tưới tiêu. Nhờ đó, sản lượng lương thực quy thóc tăng lên, lương thực bình quân đầu người đạt 390 kg/năm. Diện tích sản lượng lúa ngày càng tăng. Tổng sản lượng lương thực bình quân đạt 1.300 - 1.350 tấn/năm.

        Về chăn nuôi, tổng đàn gia súc giữ ổn định hàng năm đạt 750 con trâu, bò; 950 con lợn; Đàn gia cầm đạt 1000 con.

        Kinh tế trang trại có bước phát triển, toàn xã có nhiều mô hình VAC.

        Về xây dựng cơ bản: với phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, xã Sơn Bình tập trung kiến thiết lại cơ sở vật chất, hạ tầng, tu sửa, xây mới nhiều công trình phúc lợi. Tiêu biểu là công trình Trường Tiểu học 2 tầng. Ngoài ra, các trục đường chính, đường liên thôn, xã được tu sửa, mở rộng, làm mới các cây cầu tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân đi lại.

        Đầu năm 1999, Chính phủ ban hành Nghị Định 29/NĐ - CP về việc thực hiện Quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Để Nghị định đi vào cuộc sống, theo sự hướng dẫn của Huyện ủy, xã Sơn Bình đã phát động phong trào thi đua tìm hiểu Quy chế dân chủ ở cơ sở trong các ban ngành, đoàn thể và triển khai toàn bộ nội dung này trong toàn Đảng bộ và nhân dân.

        Đề án xây dựng nếp sống văn hóa ở khu dân cư được triển khai rộng khắp. Mỗi làng đều có Hương ước quy định về việc cưới, việc tang, giỗ tết, lễ hội, bài trừ mê tín dị đoan. Số lượng gia đình văn hóa, làng văn hóa ngày càng nhiều. Trạm y tế được tăng cường thêm bác sỹ nên công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu của người dân được đảm bảo, tỷ lệ phát triển dân số tự nhiên giảm mạnh từ 1,4% (1996) xuống còn 1,1% (2000). Cả ba cấp học từ Mầm non, Tiểu học, Trung học cơ sở có tỷ lệ lên lớp hàng năm đạt 98%, tỷ lệ học sinh tốt nghiệp các cấp đạt 95 - 98%.  

        Công tác quốc phòng - an ninh được đảm bảo. Việc xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân được thực hiện tốt. 

        Công tác xây dựng Đảng được đẩy mạnh. Đảng bộ đã tổ chức các buổi học tập nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Bộ máy lãnh đạo Đảng, chính quyền và các đoàn thể được kiện toàn kịp thời đảm bảo chất lượng. Đảng bộ nhiều năm liền được công nhận trong sạch vững mạnh. Trong Đảng bộ có 10 chi bộ đạt trong sạch vững mạnh. 02 chi bộ khá, 100% đảng viên đủ tư cách, 70 - 75% đảng viên hoàn thành nhiệm vụ. Công tác phát triển đảng viên mới được chú trọng cả về số lượng và chất lượng. Nhiệm kỳ (1996-2000), các chi bộ đã cử 45 quần chúng đi học lớp đối tượng Đảng. Trong đó, kết nạp được gần 30 đảng viên mới, hầu hết có trình độ từ Trung học cơ sở trở lên. Song song với công tác xây dựng Đảng, các đoàn thể: Đoàn thành niên, Hội phụ nữ, Hội nông dân, Hội cựu chiến binh, Hội người cao tuổi, Mặt trận Tổ quốc cũng có nhiều thành tích trong hoạt động, luôn được xếp vào tốp khá của huyện.

        Trong những năm đầu thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đảng bộ Sơn Bình đã lãnh đạo nhân dân đạt được một số kết quả quan trọng. Trong nông nghiệp nhiều giống lúa mới được đưa vào sử dụng phổ biến, năng suất cao, hệ số sử dụng đất đạt 3 vụ/năm. Các loại vật nuôi tăng trưởng nhanh, trọng lượng xuất chuồng lớn. Các vùng đất trồng, vườn tạp nay đã trở thành các vùng trồng cây nguyên liệu, cây ăn quả. Đời sống người dân tăng lên rõ rệt. Thu nhập bình quân theo đầu người từ 2,2 triệu đồng năm 1996 lên 3 triệu đồng năm 2000. Các tuyến đường giao thông, mương máng được tu sủa phục vụ tốt hơn cho việc đi lại và tưới tiêu. Hệ thống điện, trường, trạm y tế được tu sửa, mua sắm thêm trang thiết bị. Tỷ lệ gia tăng dân số giảm còn 1,1 (1999). Bộ mặt nông thôn ở Sơn Bình ngày càng thay da, đổi thịt.

        Bên cạnh những thành tích đạt được, trong thời gian qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, Sơn Bình vẫn còn tồn tại một số yếu kém là: tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm chưa tương xứng với tiềm năng đất đai, lao động; nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp, phụ thuộc vào thiên nhiên; cơ sở vật chất còn nghèo nàn. Cuộc sống của nhân dân còn khó khăn.

        3. Sơn Bình trên con đường hội nhập (2000 - 2015)

Ngày 01-9-2000, Đảng bộ xã Sơn Bình tổ chức Đại hội khóa XIX, (nhiệm kỳ 2000-2005) tại Hội trường xã. Tham dự Đại hội có 74/75 đảng viên trong toàn Đảng bộ. Đồng chí Hà Học Quán - Thường vụ Huyện ủy về tham dự và chỉ đạo Đại hội. Đại hội đã đi sâu phân tích những mặt chuyển biến tiến bộ, những yếu kém và nghiêm túc tự phê bình những khuyết điểm về sự lãnh đạo của Đảng bộ trong nhiệm kỳ 1996-2000. Từ đường lối đổi mới của Đảng, các chủ trương của Tỉnh ủy, Huyện ủy, phát huy những thuận lợi, khắc phục khó khăn của địa phương, Đại hội xác định rõ phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội, công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị từ năm 2001 đến năm 2005.

Đại hội bầu Ban Chấp hành gồm 15 ủy viên. Đồng chí Nguyễn Văn Lương tiếp tục được bầu giữ chức vụ Bí thư Đảng ủy; đồng chí Nguyễn Thị Liệu giữ chức vụ Phó Bí thư phụ trách trực Đảng; đồng chí Lê Tôn Báo được bầu giữ chức vụ Phó Bí thư, Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã (đến năm 2004 đồng chí Lê Tôn Báo nghỉ theo chế độ, đồng chí Trần Hữu Bá được bầu giữ chức vụ Phó Bí thư, Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã; đồng chí Nguyễn Văn Lương nghỉ, đồng chí Lê Quýnh bổ sung giữ chức vụ Bí thư Đảng ủy).

Dưới ánh sáng của đường lối đổi mới, vượt qua khó khăn, khắc phục những tồn tại yếu kém, Đảng bộ và nhân dân Sơn Bình đã phấn đấu không mệt mỏi và đã giành được những thành tựu cơ bản:

Về kinh tế: Tiếp tục phát triển khá, thu nhập bình quân đầu người năm 2005 đạt 4.440.000 đồng/năm. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm là 12%.

Về sản xuất nông nghiệp: xã đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo nhân dân ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, chuyển đổi mạnh mẽ cơ cấu cây trồng, vật nuôi, thâm canh tăng vụ, do đó sản lượng năng suất hàng năm tăng lên rõ nét. Tổng sản lượng lương thực kể cả màu quy thóc đạt 1.230 tấn; Bình quân lương thực đầu người đạt 420 kg.

 Công tác chuyển đổi ruộng đất, quản lý đất đai: xã đã có chủ trương và chỉ đạo các xóm thực hiện, toàn xã đã chuyển đổi làm giảm được 27% diện tích tập tục canh tác manh mún. Công tác quản lý đất đai từng bước đi vào khuôn khổ và quản lý tốt theo Luật đất đai quy định.

Các ngành nghề dịch vụ sản xuất kinh doanh: Thực hiện Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ về mở rộng ngành nghề, dịch vụ, thu hút đầu tư sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp để thu hút lao động, tăng nguồn thu nhập. Trong 5 năm qua các ngành nghề như: xây dựng, gạch, vật liệu xây dựng, buôn bán và một số ngành nghề khác tiếp tục phát triển góp phần giải quyết việc làm cho phần lớn lực lượng lao động trẻ trên địa bàn.

Ngày 05-8-2005, Đảng bộ xã Sơn Bình tổ chức Đại hội khóa XX, (nhiệm kỳ 2005-2010) tại Hội trường xã. Tham dự Đại hội có 121 đảng viên trong toàn Đảng bộ. Đồng chí Trần Tuấn Khánh - Huyện ủy viên, Phó bí thư Huyện ủy, Chủ tịch HĐND huyện tham dự và chỉ đạo Đại hội. Đại hội đã thảo luận Báo cáo đánh giá thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ nhiệm kỳ 2000-2005, phương hướng, nhiệm vụ và các giải pháp chủ yếu phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, anh ninh - quốc phòng, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong nhiệm kỳ tới.

Đại hội bầu Ban Chấp hành gồm 13 ủy viên, đồng chí Lê Quýnh được bầu giữ chức vụ Bí thư Đảng ủy; đồng chí Cù Xuân Điền giữ chức vụ Phó Bí thư phụ trách trực Đảng; đồng chí Trần Hữu Bá được bầu giữ chức vụ Phó bí thư, Chủ tịch Ủy ban nhân dân.

Từ năm 2005-2010, thực hiện nghị quyết Đảng bộ xã lần thứ XX trong điều kiện có nhiều thuận lợi: công cuộc đổi mới đất n­ước giành nhiều thắng lợi quan trọng. Đảng, Nhà n­ước có nhiều chủ trương chính sách hợp lòng dân, xã nhà tiếp tục nhận đư­ợc sự quan tâm giúp đỡ của các cấp, các ngành cấp trên, cùng với sự nỗ lực phấn đấu của cán bộ và nhân dân. Do đó kinh tế tăng trưởng khá, cơ sở hạ tầng phát triển, văn hoá xã hội có nhiều chuyển biến tích cực, quốc phòng an ninh được giữ vững, hoạt động của hệ thống chính trị ngày càng đạt kết quả vững chắc hơn.

Bên cạnh những thuận lợi, địa phương cũng gặp nhiều khó khăn thử thách: tình hình thế giới và khu vực diễn biến phức tạp, nhất là do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu năm 2008-2009, điểm xuất phát kinh tế thấp, trình độ sản xuất, nhất là sản xuất hàng hoá còn hạn chế, giá cả một số mặt hàng tăng cao, thiên tai, dịch bệnh ảnh hưởng đến phát triển kinh tế, xã hội và tâm lý người sản xuất.

Phát huy truyền thống cách mạng của địa phương, Đảng bộ đã lãnh đạo nhân dân toàn xã phát huy thuận lợi, khắc phục khó khăn, vươn lên giành nhiều kết quả mới trên các lĩnh vực.

- Về kinh tế: tiếp tục tăng trưởng, nhiều chỉ tiêu đạt và vượt kế hoạch đề ra. Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm đạt trên 16%. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, trong đó: nông nghiệp chiếm 55%, công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp chiếm 15,1%, thương mại - dịch vụ chiếm 29,9%. Bình quân thu nhập theo đầu người đạt 7,5 triệu đồng/năm tăng gần 3,5 triệu đồng so với năm 2005.

Sản xuất nông nghiệp: Đảng bộ, chính quyền đã tập trung chỉ đạo nhân dân mạnh dạn đưa tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất, đầu tư thâm canh tăng năng suất, dồn điền đổi thửa, đẩy nhanh sản xuất cây vụ đông và thực hiện nghiêm ngặt lịch thời vụ nên đã góp phần tăng giá trị sản lượng trên đơn vị diện tích. Tổng sản lượng lương thực năm 2009 đạt 1.185 tấn. Bình quân đầu người đạt 356 kg/năm. Các loại cây trồng: ngô, lạc đậu tăng nhanh cả về diện tích, năng suất và sản lượng. Trong 5 năm qua sản lượng lạc đạt 1.540 tấn, đậu xanh đạt 780 tấn.

Trong chăn nuôi: Tổng đàn trâu bò đến năm 2010 đạt 556 con, tỷ lệ sin hóa đàn bò đạt 58%, đàn lợn đạt 1.050 con, đàn hươu đạt 357 con, tăng 147 con so với đầu nhiệm kỳ, chăn nuôi thủy sản phát triển, tận dụng các mặt nước sẵn có và một số mô hình cá lúa mang lại hiệu quả kinh tế cao.

Kinh tế vườn và mô hình trang trại, gia trại đã có 2 mô hình kinh tế thu nhập trên 80 triệu đồng/năm, có 3 mô hình cây ăn quả cho thu nhập 7 - 8 triệu đồng/năm.

Về lâm nghiệp: trong nhiệm kỳ, Ủy ban nhân dân xã kết hợp với Ban quản lý rừng phòng hộ sông Ngàn Phố đã giao 58,4 ha đất rừng cho 18 hộ dân trồng cây lâm nghiệp phủ xanh đất trống đồi núi trọc bảo vệ môi trường.

Về thương mại - dịch vụ: với lợi thế đường Quốc lộ 8A chạy qua, tạo điều kiện cho kinh tế Nầm, xí nghiệp gạch Tuy nen, Cồn Rò… phát triển hoạt động kinh doanh dịch vụ thương mại tạo thu nhập khá, kích thích sản xuất phát triển. Hợp tác xã xây dựng hoạt động có hiệu quả, tạo công ăn việc làm cho 67 lao động, hàng năm đem về hàng tỷ đồng. Số lao động xuất khẩu trong 5 năm 2005-2010 là 57 lượt người mỗi năm đưa về trên 4 tỷ đồng, toàn xã có 12 ô tô các loại, 04 máy tuốt lúa, 52 máy gặt, 02 máy sơ chế lạc nhân, số lao động làm việc tại nhà máy gạch Tuy nen Sơn Bình là 72 người, thu nhập bình quân 1,5 triệu đồng/tháng, từ đó góp phần quan trọng cho phát triển kinh tế chung của địa phương.

Về xây dựng cơ sở hạ tầng, có những chuyển biến tích cực. Trong nhiệm kỳ qua, xã đã huy động được 6,833 tỷ đồng đầu tư xây dựng các công trình như trường học, trạm y tế, khu nhà làm việc chế độ “Một cửa” liên thông, tu sửa, nâng cấp khuôn viên trụ sở, xây dựng 5 hội quán. Ngoài ra, với sự hỗ trợ của con em xã quê xã đã xây dựng được cổng chào Đơn vị anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân trị giá 35 triệu đồng.

Xã đã triển khai thực hiện các dự án IFAC, CBRIP, với phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm để xây dựng công trình phúc lợi công cộng. Toàn xã đã làm mới 1,5 km đường nhựa trị giá 1,353 tỷ đồng, 3,2 km kênh mương bê tông với tổng kinh phí 736 triệu đồng, 11,5 km rải đá sỏi đường nội đồng, tu bổ nâng cấp 28 km giao thông nông thôn làm thay đổi bộ mặt nông thôn mới. Các công trình đã mang lại hiệu quả thiết thực cho việc đi lại làm ăn của nhân dân, góp phần tăng trưởng kinh tế, xóa đói giảm nghèo. Hệ thống điện, đường, trường, trạm được tu bổ thường xuyên và đã đầu tư làm mới một trạm biến áp để phục vụ dân sinh. Đến năm 2010, có 100% hộ dân sử dụng điện sinh hoạt.

Hoạt động tài chính, tín dụng có nhiều tiến bộ. Thu ngân sách năm 2010 đạt 508 triệu đồng tăng so với năm 2005 là 248 triệu đồng. Chi ngân sách đảm bảo nhiệm vụ chính trị của địa phương.

          - Về văn hóa - xã hội: Giáo dục - đào tạo tiếp tục có nhiều chuyển biến tích cự cả về số lượng và chất lượng. Cơ sở vật chất trang thiết bị cả 3 cấp học trên địa bàn đều được đầu tư nâng cấp, trường học đạt chuẩn Quốc gia giai đoạn một, trong đó trường THCS Hồ Tùng Mậu đạt chuẩn Quốc gia giai đoạn hai. Chất lượng dạy và học ngày càng được nâng cao, tỷ lệ giáo viên dạy giỏi, học sinh giỏi tỉnh, huyện ngày càng tăng. Tỷ lệ trẻ em trong độ tuổi đến trường đạt 100%, không có trẻ em thất học, hoàn thành phổ cập THCS, số con em đậu vào các trường đại học, cao đẳng là 438 em, riêng đại học là 89 em. Làm tốt công tác xã hội hóa giáo dục, hội khuyến học hoạt động có hiệu quả.

          Công tác y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân ngày càng được nâng lên. Đội ngũ y bác sỹ trạm xá và đội ngũ y tác thôn hoạt động có hiệu quả đã đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh của nhân dân. Trong 5 năm 2005-2010, đã khám và điều trị cho hơn 10.300 lượt người, tỷ lệ phụ nữ trong độ tuổi từ 18 - 35 được tiêm phòng uốn ván đạt 100%, trẻ em trong độ tuổi được tiêm phòng đầy đủ các loại vác xin và tẩy giun đúng định kỳ.

           Phong trào văn hóa, thể dục thể thao phát triển mạnh. Thực hiện Nghị quyết 02 của Tỉnh ủy về xây dựng Nông thôn mới, Đảng ủy đã chỉ đạo xây dựng quy chế làng xã văn hóa, khu dân cư tiên tiến đã trở thành phong trào phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, 11/11 xóm đã xây dựng Hương ước được Ủy ban nhân dân huyện ra quyết định công nhận. Đến năm 2010 đã có 2 làng, 3 trường học và trạm y tế đạt đơn vị văn hóa cấp tỉnh, 1 làng đạt danh hiệu làng văn hóa cấp huyện, 3 làng đạt danh hiệu khu dân cư tiên tiến xuất sắc, 587 gia đình đạt tiêu chuẩn văn hóa. Việc bảo tồn, tôn tạo các di tích lịch sử văn hóa  được quan tâm đúng mức.

          Các chương trình xóa đói - giảm nghèo, giải quyết việc làm, xuất khẩu lao động… đã mang lại hiệu quả thiết thực. Đến năm 2010, tỷ lệ hộ nghèo còn 11,93%. Công tác chính sách xẫ hội được Đảng bộ, chính quyền quan tâm chỉ đạo, chi trả chế độ chính sách kịp thời, đúng đối tượng, triển khai sâu rộng các chỉ thị, nghị quyết về giải quyết chế độ cho những người có công một cách công khai dân chủ, đảm bảo không đê sai sót xảy ra. Các đoàn thể luôn quan tâm tổ chức thăm hỏi, động viên, tặng quà cho các gia đình chính sách lúc đau ốm cũng như các ngày lễ tết.

            - Công tác quốc phòng - an ninh: Xã đã quán triệt nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, chống mọi âm mưu diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch. Trong những năm qua Sơn Bình luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ tuyển giao quân số, không có quân nhân đào ngũ. Công tác huấn luyện dân quân tự vệ đảm bảo theo chỉ thị của cấp trên. Công tác chính sách hậu phương quân đội luôn được đảm bảo.

            An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững, tăng cường phối hợp với các tổ chức, các ngành kịp thời giải quyết mâu thuẫn, kịp thời ngăn chặn, xử lý các hiện tượng vi phạm pháp luật. Trong 5 năm 2005-2010, lực lượng công an xã đã giải quyết theo thẩm quyền 39 vụ án, chuyển lên công an cấp trên giải quyết 18 vụ, ban công an xã phối hợp tốt với các ban ngành đoàn thể giải quyết nhiều vụ việc khác góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.

- Công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị:

            Về công tác giáo dục chính trị tư tưởng: Trong 5 năm qua, Ban Chấp hành Đảng bộ đã tập trung chỉ đạo học tập quán triệt có hiệu quả các chỉ thị, nghị quyết các cấp gắn liền với chương trình hành động cụ thể, xây dựng mô hình điểm nhân rộng, có trên 80% cán bộ, đảng viên và trên 60% quần chúng được học tập quán triệt, viết bài thu hoạch, thông qua đó liên hệ thực tiễn địa phương đơn vị và đưa ra các ý kiến đề xuất tổ chức thực hiện. Bên cạnh đó, Đảng bộ đẩy mạnh các hoạt động kỷ niệm các ngày lễ trọng đại của đất nước, địa phương, phát động nhân dân treo cờ Đảng, cờ Tổ quốc, treo băng rôn khẩu hiệu từ đó đã khơi dậy niềm tự hào dân tộc, nâng cao một bước về nhận thức, tư tưởng của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. Đảng ủy cũng đã tổ chức và chỉ đạo công tác thu thập tài liệu, viết bản thảo “Lịch sử Đảng bộ xã Sơn Bình”.

            Thực hiện Chỉ thị 06 của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) về đẩy mạnh cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” và phong trào báo công làm theo lời Bác theo tinh thần Chỉ thị 38 của Ban Thường vụ Huyện ủy Hương Sơn, tổ chức thi kể chuyện về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh và tổ chức tốt các chuyên đề về học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Người; cung cấp kịp thời tài liệu, báo chí, thông tin nội bộ, bản tin Hương Sơn, cập nhật thông tin ngày càng có hiệu quả, thiết thực trong sinh hoạt chi bộ, từ đó giúp cán bộ, đảng viên nâng cao về trình độ lý luận và thực tiễn, tạo sự thống nhất cao trong Đảng bộ và sự đồng thuận trong xã hội.

            Về công tác tổ chức cán bộ và đảng viên: Ban thường vụ Đảng ủy tăng cường lãnh đạo xây dựng nâng cao vai trò lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức Đảng; triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (khóa X), Nghị quyết 07 của Ban Chấp hành Huyện ủy về “Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng”, xây dựng chi bộ vững mạnh, duy trì chế độ sinh hoạt chi ủy, chi bộ đúng quy định, chất lượng sinh hoạt được nâng cao, phát huy tinh thần phê, tự phê bình trong Đảng. Tổng số đảng viên trong Đảng bộ tính đến cuối nhiệm kỳ là 274 đồng chí, trong đó miễn sinh hoạt 51 đồng chí, qua phân loại đảng viên năm 2009 số đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ đạt 82,4% tăng 22,79% so với năm 2005; số chi bộ đạt trong sạch vững mạnh là 11/15 (73%) tăng 12% so với đầu nhiệm kỳ. Trong nhiệm kỳ 2005-2010, công tác phát triển đảng được cấp ủy quan tâm chỉ đạo, đã bồi dưỡng 82 quần chúng, qua đó kết nạp 47 đảng viên mới. Công tác cấp tặng huy hiệu Đảng được triển khai kịp thời, tổ chức trao tặng huy hiệu Đảng cho 161 lượt đảng viên.

          Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương III  (khóa VIII) về chiến lược cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng ủy luôn quan tâm tạo điều kiện và làm tốt công tác quy hoạch đội ngũ cán bộ trước mắt cũng như lâu dài, đảm bảo dân chủ, công khai đúng quy trình. Đảng bộ đã gửi 07 đồng chí đi học đại học chuyên môn, năm 2010 đã có 04 đồng chí tốt nghiệp, 100% cán bộ chuyên môn đạt chuẩn về trình độ chính trị, chuyên môn nghiệp vụ. Ngoài ra, hàng năm Bí thư, xóm trưởng và các cán bộ chuyên môn đều được đi tập huấn nghiệp vụ, nâng cao trình độ, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

        Về công tác kiểm tra, giám sát: Ủy ban kiểm tra Đảng ủy thực hiện tốt chức trách nhiệm vụ được cấp ủy giao, 15/15 chi bộ được kiểm tra hồ sơ, việc thu chi Đảng phí, công tác lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương đồng thời chỉ đạo Hội đồng nhân dân, Ban thanh tra nhân dân giám sát các chuyên đề trên các lĩnh vực như tài chính, chế độ chính sách, chế độ thu nộp của học sinh, đặc biệt quan tâm đến kiến nghị của cử tri và giải quyết tốt các đơn thư khiếu nại của nhân dân.

         Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể của xã có nhiều đổi mới, góp phần quan trọng trong việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị của địa phương; phối hợp triển khai thực hiện có hiệu quả các phong trào thi đua yêu nước như phong trào xây dựng quỹ tình nghĩa, ngày vì người nghèo… ủng hộ trên 7 triệu đồng giúp đỡ đồng bào miền Trung bị lũ lụt, 1.890.000 đồng ủng hộ các nước trên thế giới bị thiên tai. Các tổ chức Hội người cao tuổi, Hội cựu giáo chức, Hội cựu chiến binh, Hội phụ nữ xã, Đoàn thanh niên ngoài việc thực hiện nhiệm vụ của mình đã bám sát chủ trương đường lối của Đảng, nghị quyết của các cấp và nhiệm vụ chính trị của địa phương thực hiện có hiệu quả phong trào thi đua lao động sản xuất, phát triển kinh tế, xóa đối giảm nghèo, áp dụng các tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất, chăn nuôi, có nhiều mô hình kinh tế điển hình xuất hiện. Kết quả hoạt động của các tổ chức đoàn thể trong 5 năm qua đều được cấp trên xét công nhận hoàn thành tốt nhiệm vụ, điển hình như Hội phụ nữ xã 4 năm liền được Hội phụ nữ huyện tặng giấy khen. Qua hoạt động của các tổ chức đoàn thể quần chúng đã tiến hành đúc rút kinh nghiệm, nhân rộng điển hình, xây dựng các phương thức hoạt động góp phần quan trọng trong việc thực hiện thắng lợi các mục tiêu đại hội đề ra.

          Hoạt động của Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân đúng theo quy chế và pháp luật của Nhà nước. Vai trò chức năng của Hội đồng nhân dân ngày càng được thể hiện, công tác tiếp xúc cử tri trước và sau bầu cử Hội đồng nhân dân được thwkc hiện đúng luật, chất lượng; nội dung các kỳ họp từng bước được cải tiến, việc ban hành các nghị quyết đúng trình tự và đúng thẩm quyền; vai trò của thường trực và đại biểu ngày càng rõ nét.

          Vai trò quản lý điều hành của chính quyền từ xã đến xóm có nhiều đổi mới, có kế hoạch hoạt động cho từng quý, từng tháng trên cơ sở bám sát nghị quyết của Đảng, của Hội đồng nhân dân; việc tổ chức thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội; quốc phòng - an ninh ngày càng có hiệu quả.

          Bên cạnh những thành tích đạt được nói trên, trong giai đoạn 2005-2010, Sơn Bình còn bộc lộ những tồn tại, hạn chế cần được khắc phục. Về kinh tế, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu cây trồng chưa đáp ứng được yêu cầu, tư tưởng bảo thủ, trì trệ ỷ lại, chậm đổi mới trong nhân dân, biện pháp lãnh đạo của cấp ủy, chính quyền cón lúng túng trong việc xây dựng quan hệ kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Chuyển đổi ruộng đất giai đoàn 2 tiến độ còn chậm. Việc đưa tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất còn gặp nhiều khó khăn làm cho giá trijsanr lượng và năng suất còn thấp chưa tương xứng với tiềm năng lao động và đất đai của địa phương. Vai trò của Hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới còn nhiều bất cập do thiếu vốn. Về huy động nội lực để xây dựng cơ sở hạ tầng còn khiêm tốn, nợ đọng trong nhân dân còn nhiều, số nợ công trình chưa có giải pháp tạo nguồn để thanh toán.

         Về quốc phòng - an ninh chưa phát huy được vai trò 3 tự quản, hiện tượng mất trật tự an ninh còn xảy ra ở một số nơi. Công tác phòng cháy chữa cháy và bảo vệ rừng còn kém hiệu quả, đầu nhiệm kỳ còn để xảy ra một vụ cháy rừng.

         Công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị: chưa quán triệt sâu sắc quan điểm đổi mới của Đảng nhất là trên lĩnh vực kinh tế; một bộ phận cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân còn mang nặng tư tưởng bảo thủ, trông chờ, ỷ lại; công tác đâu tranh chưa tập trung mạnh mẽ, một số đảng viên còn e dè, nể nang ngại va chạm, chưa thực sự nói đi đôi với làm, có lúc còn thiếu vai trò tiên phong gương mẫu...

         Từ đó, Đảng bộ rút ra những bài học kinh nghiệm:

          Một là, giữ vững đoàn kết nội bộ, nhất là trong Ban Chấp hành Đảng ủy, thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách thực hiện đúng nguyên tắc điều lệ Đảng, trên dưới một lòng thống nhất hành động đưa chỉ thị, nghị quyết của Đảng đi vào cuộc sống. Tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” và phong trào báo công làm theo lời Bác.

          Hai là, đánh giá đúng năng lực cán bộ và bố trí phù hợp theo khả năng, sở trường của từng đồng chí.

          Ba là, vận dụng sáng tạo tinh thần nghị quyết cấp trên vào thực tiễn địa phương, đổi mới phong cách lãnh đạo của Cấp ủy luôn sâu sát cơ sở, lắng nghe ý kiến nhân dân, giải quyết kịp thời những vấn đề vướng mắc nảy sinh. Tổ chức chỉ đạo thực hiện có hiệu quả chỉ thị, nghị quyết các cấp, đảm bảo hiệu lực và đưa nghị quyết vào cuộc sống, phát động phong trào quần chúng, huy động sức người, sức của xây dựng quê hương.

          Bốn là, các chỉ thị, nghị quyết các cấp phải được học tập, triển khai sâu rộng và có chương trình hành động cụ thể, phát huy được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, các chủ trương, biện pháp chỉ đạo phải phù hợp với nguyện vọng của quần chúng nhân dân, thực hiện tốt Chỉ thị 30 CT/TW của Trung ương Đảng, Nghị định 79 CP của Chính phủ về công tác thực hiện quy chế dân chủ cơ sở, mọi việc liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của nhân dân phải cho dân biết, dân làm, dân kiểm tra.

              Ngày 02, 03-4-2010, Đại hội đại biểu Đảng bộ xã Sơn Bình khóa XXI, nhiệm kỳ (2010-2015) được tổ chức tại Hội trường xã. Tham dự Đại hội có 131 Đại biểu đại diện cho 274 đảng viên trong toàn Đảng bộ. Đại hội đã thông qua Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ nhiệm kỳ 2005-2010, phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu nhiệm kỳ 2010-2015.

   Đại hội bầu Ban Chấp hành gồm 13 ủy viên, đồng chí Lê Thanh Trường được bầu giữ chức vụ Bí thư Đảng ủy; đồng chí Nguyễn Thị Bình giữ chức vụ Phó Bí thư trực Đảng; đồng chí Cù Xuân Điền được bầu giữ chức vụ Phó bí thư, Chủ tịch Ủy ban nhân dân (đến năm 2013, đồng chí Lê Thanh Trường chuyển công tác, đồng chí Nguyễn Thị Bình được bầu giữ chức vụ Bí thư Đảng ủy, đồng chí Nguyễn Minh Tuấn được bầu bổ sung giữ chức vụ Phó Bí thư trực Đảng).

Phương hướng chung của nhiệm kỳ 2010-2015 được Đại hội xác định là: Phát huy thành quả đạt được trong nhiệm kỳ qua, cùng với tinh thần cách mạng tiến công của quê hương Sơn Bình anh hùng vượt lên khó khăn thách thức tạo bước chuyển biến mạnh mẽ, đột phá trong phát triển kinh tế - xã hội, vững mạnh về quốc phòng - an ninh, xây dựng Đảng bộ trong sách vững mạnh.

Đại hội đề ra một số mục tiêu cụ thể:

- Tốc độ tăng trưởng kinh tế 10 - 12%/năm, có cấu kinh tế đến năm 2015 là: Nông nghiệp 48%; Công nghiệp; Tiểu thủ công nghiệp 21%; Thương mại dịch vụ 31%;

- Lương thực bình quân đầu người đạt từ 390 - 400 kg/năm;

- Tăng hộ giàu 2 - 3%/năm; hộ khá 8 - 10%; giảm hộ nghèo còn 7 - 8% vào năm 2015;

- Thu nhập bình quân đầu người đến năm 2015 đạt 15 triệu đồng;

- Bê tông hóa 100% đường giao thông nông thôn vào năm 2015;

- Đàn trâu bò tăng 2 - 5%; Đàn lợn tăng 5 - 8%; Đàn hươu 6 - 10%; Đàn gia cầm 14 - 15 nghìn con/năm;

- Thự hiện có hiệu quả công tác chuyển đổi ruộng đất giai đoạn 2; Xây dựng 5 mô hình kinh tế có thu nhập trên 80 triệu đồng/mô hình/năm;

- 8 đơn vị đạt danh hiệu văn hóa; 79% số hộ đạt tiêu chuẩn gia đình văn hóa; Xây dựng nhà truyền thống xã;

- Giữ vững danh hiệu 3 ngành học trên địa bàn và trạm y tế đạt chuẩn Quốc gia; 100% trẻ em trong độ tuổi được đến trường, không có trẻ em thất học;

- Giữ vững tỷ lệ tăng dân số tự nhiên từ 0,5 - 0,8%/năm; Hạ tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng xuống dưới 18%;

- Phấn đấu không có trọng án trọng điểm và các tệ nạn xã hội xảy ra trên địa bàn;

- Phấn đấu mỗi năm kết nạp được 10 đảng viên mới; Phân loại đảng viên hàng năm có trên 80% đảng viên đủ tư cách hoàn thành tốt nhiệm vụ, không có đảng viên và tổ chức Đảng vi phạm kỷ luật; Tỷ lệ đảng viên tham gia học tập chỉ thị, nghị quyết các cấp đạt trên 90%; Đảng bộ đạt danh hiệu trong sạch vững mạnh.

           Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, chính quyền, đoàn thể, nhân dân xã Sơn Bình đã không ngừng nỗ lực, phấn đấu vượt qua khó khăn thư thách bước đầu đạt được một số kết quả đáng khích lệ.

          Về phát triển kinh tế: giá trị sản xuất đạt trên 53,8 tỷ đồng. Bình quân thu nhập đầu người đạt 16.690.000 đồng/năm tăng 9.134.000 đồng so với đầu nhiệm kỳ. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, trong đó nông nghiệp chiêm 48%, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp chiếm 21%, thương mại - dịch vụ chiếm 31%.

          Trong nông nghiệp: Cơ cấu cây trồng chuyển dịch theo hướng đa dạng cả về diện tích và hiệu quả kinh tế; đã mạnh dạn đưa tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất, đầu tư thâm canh tăng năng suất, dồn điền đổi thửa, đẩy nhanh sản xuất cây vụ đông và thực hiện nghiêm ngặt lịch thời vụ nên đã góp phần tăng giá trị sản lượng trên đơn vị diện tích. Tổng sản lượng lương thực năm 2014 đạt 1.348 tấn, tăng 163 tấn so với năm 2009. Bình quân lương thực đầu người cuối năm 2014 là 431 kg tăng 75 kg so với năm 2010. Sản xuất phát triển nông nghiệp hàng nông sản có giá trị khối lượng ngày càng lớn. Cụ thể hàng năm bình quân lạc vỏ đạt 64 tấn, đậu xanh đạt 24 tấn, ngô đạt 160 tấn. Trong nhiệm kỳ đã thành lập 04 doanh nghiệp; 02 Hợp tác xã; 03 tổ hợp tác.

          Chăn nuôi: Tập trung phát triển chăn nuôi theo đề án giai đoạn 2011-2015 nhằm nâng giá trị tỷ trọng trong phát triển kinh tế - xã hội. Đã xây dựng 01 trang trại chăn nuôi lợn tập trung liên kết CP 600 con/lứa, hàng năm doanh thu trên 500 triệu đồng; 08 mô hình chăn nuôi bò, lợn có thu nhập từ 100 - 200 triệu đồng/năm; có 75 mô hình chăn nuôi hươu, bò, lợn, cá, cu nhốt, thỏ, gà, vịt cho thu nhập từ 50 - 100 triệu đồng, từ đó nâng cao thu nhập và phát triển kinh tế cho nhân dân. Tổng đàn trâu bò đến năm 2015 đạt 533 con, tỷ lệ sin hóa đàn bò đạt 65%; Đàn hươu đạt 418 con tăng 61 con so với năm 2010; Đàn lợn đạt 6.500; chăn nuôi thủy sản phát triển, tận dụng mặt nước sẵn có và một số mô hình cá lúa xuất hiện mang lại hiệu quả kinh tế cao.

          Thương mại - dịch vụ: Với lợi thế có đường Quốc lộ 8A chạy qua và các điểm kinh tế Nầm đã tạo điều kiện phát triển các loại hình kinh doanh dịch vụ thương mại được mở rộng như vận tải hàng hóa, buôn bán nhỏ lẻ nhằm nâng cao thu nhập cho nhân dân. Tính đến năm 2015 đã có 73 hộ kinh doanh về thương mại dịch vụ cho thu nhập trên 35 triệu đồng/người/năm. Hợp tác xã xây dựng hoạt động có hiệu quả tạo công ăn việc làm cho trên 35 lao động đem về hàng trăm triệu đồng. Số lao động xuất khẩu trong 5 năm qua là 178 lượt người mỗi năm thu về trên 2,99 tỷ đồng; toàn xã có 19 ô tô các loại, 08 máy tuốt lúa, 293 máy gặt, 02 máy sơ chế lạc, 06 máy cày. Số lao động làm việc tại nhà máy gạch Tuynen Sơn Bình là 72 người cho thu nhập ổn định bình quân 3 triệu đồng/người/tháng, góp phần phát triển kinh tế địa phương.

 

 

          Phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội: Tổng vốn đầu tư xây dựng kiến thiết cơ bản trong 5 năm qua trên 69,993 tỷ đồng; tăng so với năm 2010 là 63,160 tỷ đồng; huy động sức dân đống góp đã làm mới 18,56 km /39,75 km, đường cứng đạt chuẩn theo quy định NTM, trị giá 44,5 tỷ, trong 5 năm qua đào đắp tu bổ, rải đá sỏi đường nội đồng được 9 km, tu bổ nâng cấp hơn 4 km giao thông nông thôn. Đến nay đạt 46% tiêu chí nông thôn mới về giao thông; nạo vét 4 km kênh mương từ gia Bạc đến đồng Tranh về cửa Trộ vào sâu trong nội địa xã Sơn Trà chống úng toàn diện cho đồng ruộng Cửa Trộ, Đồng Tranh, Như Lai tạo điều kiện sản xuất nông nghiệp, xây dựng mới hơn 23 km và 2 trạm biến thế trị giá 7 tỷ, 100% hộ dân sử dụng điện sinh hoạt ổn định. Đến nay đã hoàn thành tiêu chí về Điện.

         Việc đầu tư xây dựng cơ sở vật chất trường học luôn được quan tâm, nhất là vận động nhân dân hiến đất mở rộng khuôn viên thu hút đầu tư trên 7 tỷ xây dựng mới cơ sở vật chất tiếp nhận học sinh trường THCS Long Trà về THCS Hồ Tùng Mậu; huy động các nguồn lực trên 1 tỷ cải tạo chỉnh trang trường Tiểu học tiến tới xây dựng trường chuẩn cấp độ 2; Trường Mầm non bán công Sơn Bình được chuyển thành trường công lập, cơ sở vật chất  được đầu tư nâng cấp, chất lượng dạy và học được nâng lên. Đến nay đạt 70% tiêu chí nông thôn mới về Trường học.

        Trong nhiệm kỳ qua xây dựng mới 03 Hội quán trị giá 1,7 tỷ đồng, 6/6 xóm đã có nhà hội quán để sinh hoạt. Công trình khu thể thao được đầu tư nâng cấp đáp ứng phần nào nhu cầu sinh hoạt văn hóa thể thao cho nhân dân. Đến nay đạt 30% tiêu chí nông thôn mới về cơ sở vật chất văn hóa. Hiện nay tổng số nhà ở của xã là 865, trong đó số nhà đạt tiêu chuẩn của bộ xây dựng 805 nhà, đạt tỷ lệ 93,1%, tổng số nhà ở tạm, dột nát cần xóa 11 nhà trong đó quyết định 22 có 3 nhà. Đến nay đạt 93,1% tiêu chí nông thôn mới về nhà ở.

           Về phát triển kinh tế và hình thức tổ chức sản xuất: Giá trị sản xuất đạt trên 53,8 tỷ đồng. Bình quân thu nhập đầu người đạt 16.690.000 đồng/năm, tăng 9.134.000 đồng so với đầu nhiệm kỳ (tăng 111% so với kế hoạch đề ra). Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, trong đó: nông nghiệp chiếm 48%, tiểu thủ công nghiệp chiếm 21%, thương mại dịch vụ chiếm 31%.

           Về trồng trọt: Diện tích, năng suất, sản lượng các cây trồng chính (lúa, ngô, lạc) đạt kế hoạch đề ra; áp dụng tốt các tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất, đầu tư thâm canh, phòng trừ sâu bệnh ngày một tốt hơn, bỏ hẳn được diện tích trà xuân sớm theo chủ trương chung của huyện, tỉnh; sản lượng lương thực năm 2014 đạt 1.348 tấn, tăng so với năm 2009 là 163 tấn; bình quân lương thực năm 2014 là 431 kg/người/năm, tăng so với năm 2010 là 75 kg, lạc 64 tấn, đậu xanh 24 tấn, ngô 160 tấn. Ủy ban nhân dân xã kết hợp với Ban quản lý rừng phòng hộ Sông Ngàn Phố đã giao xong 58,4 ha đất rừng cho 18 hộ dân, nhận   rừng trồng cây lâm nghiệp phủ xanh đất trống đồi núi trọc bảo vệ môi trường. Đã đo đạc bản đồ địa chính cho 10 hộ

         Về chăn nuôi: Tập trung phát triển theo đề án phát triển chăn nuôi giai đoạn 2011-2015, nhằm nâng giá trị tỷ trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng 01 trang trại chăn nuôi lợn tập trung liên kết CP 600 con/lứa, hàng năm doanh thu trên 500 triệu đồng/năm, 08 mô hình chăn nuôi bò, lợn cho thu nhập từ 100 đến 200 triệu/năm: và có 75 mô hình chăn nuôi hươu bò, lợn, cá, bồ câu, thỏ, gà, vịt, cho thu nhập từ 50 đến 100 triệu đồng.

          Tổng đàn trâu bò đến nay 533 con, tăng 27 con so với năm 2010, đàn hươu 418 con, tăng so với năm 2010 là 61 con, đàn lợn 6500 con, tăng 1.050 con so với năm 2010, chăn nuôi thủy sản phát triển, tận dụng các mặt nước sẵn có và một số mô hình cá lúa xuất hiện mang lại hiệu quả cao. Trong nhiệm kỳ qua đã quan tâm chỉ đạo thành lập các doanh nghiệp, HTX, tổ hợp tác. Đến nay có 04 doanh nghiệp; 02 HTX; 03 tổ hợp tác, đạt 70% tiêu chí nông thôn mới về hình thức tổ chức sản xuất.

Thương mại dịch vụ: Với lợi thế có đường quốc lộ 8A chạy qua các hoạt động thương mại, dịch vụ được mở rộng, đến nay có trên 73 hộ kinh doanh về thương mại, dịch vụ; cho thu nhập trên 35 triệu /người/năm. HTX xây dựng hoạt động có hiệu quả, tạo công ăn việc làm trên 13 lao động hàng năm đem về hàng trăm triệu đồng. Số lao động xuất khẩu trong 5 năm qua 178 lượt người mỗi năm đem về 2,99 tỷ đồng, số lao động làm việc tại xí nghiệp gạch Tuy nen Sơn Bình là 72 người cho thu nhập ổn định  bình quân 3 triệu/người/tháng, tăng 50% so với đầu nhiệm kỳ.

Lĩnh vực Lao động việc làm: Tình hình lao động và lao động qua đào tạo trên địa bàn xã trong chương trình nông thôn mới. Trong toàn xã đến nay có 1552 lao động trong đó lao động có việc làm thường xuyên là 1.431 người chiếm tỷ lệ 92,2%, lao đông qua đào tạo là 789 người chiếm tỷ lệ 55,1%. Đã hoàn thành tiêu chí Tỷ lệ lao động có việc làm thường xuyên

Phát triển giáo dục, y tế, văn hóa xã hội môi trường: Chất lượng giáo dục không ngừng được nâng lên; tỷ lệ học sinh tốt nghiệp các cấp tăng đều qua các năm, nhiều em đạt giải cao trong các kỳ thi học sinh giỏi cấp tỉnh; huyện; công tác phổ cập giáo dục đạt mục tiêu đề ra; lĩnh vực đào tạo nghề có bước phát triển, tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng lên qua các năm. Tốt nghiệp THCS, hàng năm đạt tỷ lệ 98,%; tổng số trường đạt chuẩn Quốc gia trên địa bàn 2/3 trường, đạt tỷ lệ 67%; tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn ở các cấp học đạt trên 99% theo quy định. Trong năm 5 qua số học sinh đậu vào các trường trung cấp, cao đẳng, đại học 195 em, cơ sở vật chất trang thiết bị ba cấp học trên địa địa bàn được đầu tư nâng cấp.

 Công tác y tế, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân có nhiều chuyển biến tích cực, đội ngũ y, bác sỹ trạm xá, và đội ngũ y tá thôn 6/6 hoạt động có hiệu quả, đã đáp ứng nhu cầu khám và chữa bệnh cho nhân dân, trong 5 năm qua đã khám và điều trị cho 3.551 lượt người, tỷ lệ phụ nữ trong độ tuổi (từ 18- 35) được tiêm phòng uốn ván 100%, trẻ em trong độ tuổi được tiêm phòng đầy đủ đúng định kỳ, tổ chức tiêm phòng Sởi, Rubela cho trẻ em từ 01 - 14 tuổi đạt 100 %. Tỷ lệ người dân tham gia BHYT đến nay đạt 74%, tăng 14% so với đầu nhiệm kỳ, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên bình quân trong 5 năm qua là 0,66%. Đến nay đã đạt tiêu chí NTM về y tế.

 Phong trào VH-VN-TDTT: Tổ chức các hoạt động văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao mừng Đảng, mừng Xuân, chào mừng kỷ niệm các ngày lễ lớn của quê hương, đất nước. Xã đã có mạng lưới truyền thanh đưa tin và tuyên truyền các chủ trương chính sách của Đảng và pháp luật Nhà nước, đến nay đã có 95% nhà ngói sân phơi, giếng nước, phong trào vệ sinh được đẩy mạnh, số hộ có phương tiện nghe nhìn 96%, 90% hộ có xe gắn máy, 95% hộ có máy điện thoại, xã đã có điểm bưu điện văn hoá. Thực hiện tốt nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội, tổ chức tốt  Đại hội thể dục thể thao, tổ chức đốt lữa trại trong dịp tết cổ truyền dân tộc. Toàn xã có 6/6 thôn có nhà văn hóa; có 02 di tích được xếp hạng, trong đó: 01 di tích lịch sử văn hoá cấp quốc gia; 01 di tích lịch sử văn hoá cấp cấp tỉnh, 6/6 xóm xây dựng hương ước để thực hiện, số hộ gia đình đạt tiêu chuẩn gia đình văn hóa ngày càng tăng cụ thể năm 2010 có 513 hộ đạt tiêu chuẩn gia đình Văn hóa đến năm 2014 có 619 hộ đạt gia đình văn hóa tăng 12% so với đầu nhiệm kỳ, có 03 đơn vị và 01 làng văn hóa đạt tiêu chuẩn danh hiệu văn hóa; Đến nay đã hoàn thành 40% tiêu chí NTM về về Văn hóa.

Công tác xóa đói giảm nghèo: Thực hiện vay vốn xóa đói giảm nghèo của nhà nước, đến nay tổng số dư nợ trên 15 tỷ đồng. Năm 2010 số hộ giàu 162 hộ, hộ khá 233 hộ, trung bình 325 hộ, hộ ngèo 120 hộ. Đến nay số hộ giàu là 178 hộ chiếm 19,8%, hộ khá là 264 hộ chiếm 29,4%; hộ trung bình 246 hộ chiếm 27,4 %; hộ cận nghèo 123 hộ chiếm 13,7%; hộ nghèo 87 hộ chiếm 9,7%. Đến nay đạt 50% tiêu chí NTM về hộ nghèo.

Công tác chính sách xã hội: Thực hiện đúng, đủ, kịp thời, không để xẩy ra tiêu cực trong việc thực hiện các chính sách xã hội, phong trào "đền ơn đáp nghĩa" nhân dịp ngày thương binh liệt sỹ 27/7 hàng năm. Làm tốt công tác khen thưởng và chi trả tiền chính sách cho các đối tượng có công theo đúng quy định, không để sai sót. Hướng dẫn, bình xét và hoàn tất hồ sơ thủ tục đề nghị hưởng chính sách cho các đối tượng chế độ theo quy định, như các đối tượng thuộc Nghị định 67, hồ sơ ưu đãi học sinh, tiến hành kịp thời và hiệu quả công tác cứu trợ hàng năm.

           Công tác quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường được chú trọng:  Thực hiện tốt công tác cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Nghị quyết số 54 của HĐND tỉnh; Giai đoạn từ 2011-2015 đã cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở lần đầu được 319 giấy, đạt 95%; giải quyết kịp thời những vướng mắc trong việc cấp đất cho hộ gia đình, cá nhân; đã đo đạc xong bản đồ địa chính đang tiến hành cấp đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho nhân dân.

Tổ chức tập huấn kỹ thuật trồng, chăm sóc và phòng trừ sâu bệnh ở cây lúa, tập huấn kỹ thuật chăn nuôi gà, hội thảo về lao động việc làm do sở lao động chủ trì cho hơn 1.000 lượt người tham gia. Các hộ sản xuất được tiếp cận kịp thời các chính sách hỗ trợ của Nhà nước, tập trung tuyên truyền vận động nhân dân chỉnh trang lại khuôn viên, xây dựng bờ rào, xây dựng chuồng trại hợp vệ sinh. Đến nay có 90% số hộ có hố xí hợp vệ sinh.

Công tác quân sự địa phương, an ninh chính trị. Trật tự an toàn xã hội và an toàn giao thông: Chấn chỉnh nề nếp sinh hoạt lực lượng nòng cốt, lực lượng Dân quân tự vệ, Dự bị động viên, Thôn đội trưởng, trung đội cơ động, tiểu đội dân quân xóm và các binh chủng. Công tác đảm bảo an ninh chính trị và giữ gìn trật tự xã hội được quan tâm và đạt nhiều kết quả quan trọng, giải quyết kịp thời các mâu thuẫn, không phát sinh các “điểm nóng”; Nhìn chung trong 5 năm qua công tác an ninh trên địa bàn được giữ vững, đã phát huy vai trò tổ hòa giải,  trong 5 năm qua có 61 vụ trong đó vụ tai nạn giao thông 5 vụ, trộm tài sản 10 vụ, gây rối trật tự xã hội 8 vụ, tranh chấp bờ vườn 2 vụ, gây cháy 13 vụ, chết đuối 3 vụ, các vụ việc khác 17 vụ, công an xã đã giải quyết theo thẩm quyền 30 vụ, chuyển lên công an cấp trên giải quyết 20 vụ, có 6 đối tượng có biểu hiện sử dụng chất ma túy trên địa bàn.

   Công tác giáo dục chính trị tư tưởng gắn với thực hiện chỉ thị 03 - CT/TW của Bộ chính trị được đặc biệt quan tâm: Ban Chấp hành Đảng bộ xã Sơn Bình đã tổ chức học tập, quán triệt đầy đủ, kịp thời các chỉ thị nghị quyết văn bản trên đến tận từng cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền thực hiện nhiệm vụ chính trị, nhất là công tác giải phóng mặt bằng, chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng NTM.

Tổ chức học tập đầy đủ, kịp thời các chuyên đề học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Duy trì nghiêm túc chế độ giao ban tuần, chào cờ báo công tháng theo quy định. Thông qua việc đăng ký học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong cán bộ, đảng viên, công chức đã làm cho mỗi người tăng thêm ý thức của mình trong tất cả các lĩnh vực. Thể hiện tinh thần, thái độ, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, công chức gắn bó tình cảm trách nhiệm đồng chí, đồng nghiệp với quần chúng nhân dân, ý thức tự giác trong công việc, chủ động sáng tạo, nhiệt tình hơn, hiệu quả công việc cao hơn. Tỷ lệ ký cam kết đạt 100%. Mặt trận Tổ quốc, các ban ngành đoàn thể, các chi bộ đã đưa các chuyên đề  học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong các cuộc sinh hoạt chi bộ và phát động thi đua như làm giao thông nông thôn, mở rộng các trục đường theo tiêu chí NTM đối với các thôn, thi đua làm vệ sinh đường làng, ngõ xóm… lập thành tích báo công với Bác nhân ngày 19/5 và Quốc khánh 2-9 hàng năm.

Trong nhiệm kỳ qua đã có 6 tập thể, 35 cá nhân được huyện, Đảng ủy xã biểu dương về thành tích trong học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.  

Việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI), sau học tập, quán triệt nghị quyết, bám sát các văn bản hướng dẫn của cấp ủy cấp trên, Ban Chấp hành đã xây dựng kế hoạch tiến hành kiểm điểm tự phê bình và phê bình, chỉ đạo, hướng dẫn các chi bộ trực thuộc kiểm điểm nghiêm túc, khắc phục dần tình trạng hẫng hụt, bị động trong công tác cán bộ, các nội dung trong công tác cán bộ được thực hiện đồng bộ, đảm bảo quy trình, mở rộng dân chủ; nội bộ đoàn kết, thống nhất, tự phê bình và phê bình được đề cao góp phần thúc đẩy việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, xây dựng chi bộ, Đảng bộ trong sạch vững mạnh.

Công tác tổ chức xây dựng Đảng, tạo chuyển biến tích cực trong việc xây dựng, củng cố và nâng cao chất lượng hệ thống tổ chức đảng các cấp. Tổ chức thành công Hội thi bí thư chi bộ năm 2014 thu hút đông đảo cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân tham gia, cổ vũ động viên tạo thành đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng, có sức lan tỏa mạnh mẽ. Các chi bộ đảng được sáp nhập theo hướng tinh gọn, từng bước nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động. Đến nay, Đảng bộ xã còn 10 chi bộ (giảm 05 chi bộ so với đầu nhiệm kỳ). Đảng bộ 5 năm liền đạt Đảng bộ trong sạch vững mạnh, chỉ đạo thành công việc sáp nhập thôn theo Nghị quyết của HĐND tỉnh, toàn xã giảm được 5 thôn, còn lại 6 thôn. Hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước của bộ máy chính quyền ngày càng được nâng cao. Tổng số đảng viên của Đảng bộ đến nay là 300 đồng chí, số đảng viên sinh hoạt và công tác cơ bản được phân công nhiệm vụ cụ thể. Trong nhiệm kỳ đã bồi dưỡng cho 52 quần chúng và đến nay đã kết nạp 36 đảng viên mới. Công tác tặng huy hiệu Đảng và truy tặng được triển khai kịp thời, tổ chức trao tặng huy hiệu Đảng được thực hiện nghiêm túc, long trọng trong 5 năm qua toàn Đảng bộ đã tổ chức truy tặng huy hiệu đảng cho 17 đồng chí, trao tặng huy hiệu đảng cho 151 lượt đảng viên.

 Về công tác đào tạo cán bộ, Đảng ủy luôn quan tâm đảm bảo dân chủ, công khai đúng quy trình. Trong nhiệm kỳ đã cử 08 đồng chí đi học đại học,  07 đồng chí học trung cấp Lý luận chính trị, hàng năm cán bộ bí thư, xóm trưởng và các ngành chuyên môn được đi tập huấn nghiệp vụ, từ đó đã tạo điều kiện cho việc hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

 

 Công tác kiểm tra, giám sát đã được quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện. Đã tổ chức quán triệt kịp thời và đầy đủ các Quyết định, Quy định, Quy chế của Đảng và các hướng dẫn của Uỷ ban Kiểm tra Trung ương, các kế hoạch, chương trình hành động của Huyện ủy về công tác kiểm tra, giám sát; tiến hành xây dựng chương trình kiểm tra, giám sát cụ thể hóa qua từng năm để thực hiện. Chú trọng thực hiện theo phương châm giáo dục, phòng ngừa, ngăn chặn là chính, tập trung vào việc kiểm tra tổ chức đảng, đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm, kiểm tra, giám sát việc khắc phục những hạn chế, khuyết điểm sau kiểm điểm theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI); xử lý nghiêm, kịp thời những đảng viên có sai phạm, đảm bảo tính nghiêm minh trong kỷ luật của Đảng. Trong nhiệm kỳ Đảng ủy đã thành lập 5 đoàn kiểm tra, giám sát 10 tổ chức đảng, 80 đảng viên; UBKT Đảng ủy đã thành lập 4 tổ, kiểm tra, giám sát 10 tổ chức đảng và 70 đảng viên; thi hành kỷ luật và đề nghị thi hành kỷ luật 05 đảng viên vi phạm, trong đó 4 khiển trách, cách chức 01 đồng chí.

 

Phong trào xây dựng mô hình dân vận khéo được đẩy mạnh, toàn xã đã xây dựng được 04 mô hình “Dân vận khéo” hoạt động có hiệu quả trên các lĩnh vực  góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh và công tác xây dựng Đảng.

Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên đã có sự đổi mới về phương thức, lề lối làm việc và tập trung hướng mạnh về cơ sở; nắm bắt tâm tư nguyện vọng của nhân dân, phổ biến và vận động nhân dân chấp hành tốt các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Thực hiện tốt các hoạt động vì người nghèo, kêu gọi, tiếp nhận và phân phối hàng cứu trợ trong trận lũ lịch sử năm 2010 và 2013. Trong 5 năm qua Quỹ “Vì người nghèo” huy động được 41 triệu đồng cùng với sự hỗ trợ của quỹ người nghèo các cấp, các nhà hảo tâm đã nâng cấp và làm mới được 63 nhà (trong đó nhà chính sách là 14; nhà hộ nghèo là 49 nhà). Tổng nguồn đầu tư 2,827 tỷ đồng (trong đó nguồn nhà nước hỗ trợ 201.600.000 đồng, doanh nghiệp hỗ trợ 559.400.000 đồng, nguồn UBMTTQ 224 triệu, nhân dân đóng góp và các hộ tự đầu tư 1.842 triệu đồng, Trận lũ lịch sử năm 2010 và 2013, đã tiếp nhận được trên 16 tấn gạo và nhiều loại hàng hóa khác của các nhà hảo tâm, các tổ chức, doanh nghiệp trên cả nước kịp thời giúp đỡ nhân dân khắc phục lũ lụt, ổn định sản xuất và đời sống, phát huy tinh thần tương thân, tương ái, lá lành đùm lá rách, cán bộ, đảng viên quần chúng nhân dân Sơn Bình hưởng ứng lời kêu gọi của ủy ban TW MTTQVN đã ủng hộ trên 39 triệu giúp đỡ đồng bào các tỉnh miền Trung bị ảnh hưởng thiên tai, bão lũ và quyên góp trên 10 triệu ủng hộ các lực lượng kiểm ngư đang làm nhiệm vụ ở biển đảo.

Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, công tác lãnh đạo chỉ đạo trong xây dựng NTM chưa thực sự quyết liệt, công tác nắm bắt dư luận xã hội và diễn biến tư tưởng trong cán bộ, đảng viên chưa thường xuyên, kịp thời, xử lý các vấn đề bức xúc phát sinh còn chậm.

 Việc thành lập các Doanh nghiệp, HTX và tổ hợp tác gặp nhiều khó khăn, quy mô và hiệu quả hoạt động chưa cao. Hiệu quả trong khai thác tài nguyên thấp; vấn đề rác thải, ô nhiểm môi trường chưa được xử lý triệt để. Hoạt động thương mại, dịch vụ phát triển chậm; kết cấu hạ tầng chưa đáp ứng nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội.

Một số vấn đề xã hội chậm khắc phục; đời sống của một bộ phận dân cư còn nhiều khó khăn. Kết quả xóa đói, giảm nghèo chưa vững chắc, tỷ lệ hộ nghèo và nguy cơ tái nghèo vẫn còn cao; các vấn đề việc làm, thu nhập của nhân dân còn khó khăn.

Chất lượng giáo dục - đào tạo vẫn còn những hạn chế, chưa đáp ứng kịp yêu cầu của sự phát triển; Chất lượng các dịch vụ y tế chưa đáp ứng được nhu cầu của nhân dân, các vấn đề về rác thải, ô nhiễm môi trường còn nhiều bất cập. Qúa trình thực hiện chính sách an sinh xã hội đối với người có công, gia đình chính sách... còn tồn tại một số hạn chế nhất định.

 

Công tác phòng chống cháy và bảo vệ rừng hiệu quả chưa cao đang còn để xẩy ra một số vụ cháy rừng. An ninh chính trị và trật tự xã hội có thời điểm còn diễn biến phức tạp. Chưa phát huy vai trò 3 tự quản, khả năng phát hiện, xử lý, giải quyết các vấn đề phát sinh ở cơ sở còn hạn chế, thiếu tính chủ động

 Công tác xây dựng Đảng và các tổ chức trong hệ thống chính trị: Công tác lãnh đạo nắm bắt tình hình tư tưởng trong cán bộ, đảng viên có lúc, có nơi chưa chặt chẽ. Việc triển khai Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng chưa thực sự sâu rộng trong quần chúng nhân dân.

          Việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh có nơi còn hình thức, mang tính phong trào, chưa trở thành công việc thường xuyên hàng ngày của mỗi cán bộ, đảng viên.

Công tác phát triển Đảng viên chưa đạt mục tiêu đề ra, có chi bộ trong 5 năm qua không bồi dưỡng phát triển thêm Đảng viên mới.

Việc khắc phục, sửa chữa hạn chế, khuyết điểm sau kiểm điểm Trung ương 4 (khóa XI) của một số cấp ủy, cán bộ, đảng viên còn chậm, thiếu quyết liệt, hiệu quả chưa cao; một số vụ việc bức xúc, nổi cộm giải quyết chưa triệt để; chưa đề ra được các giải pháp đột phá để chỉ đạo thực hiện.

Công tác vận động quần chúng có mặt còn hạn chế, chưa thực sự huy động sức mạnh của các tầng lớp nhân dân trong thực hiện nhiệm vụ chính trị; hoạt động của một số đoàn thể, nhất là ở cấp cơ sở chưa đi sâu vào nội dung, thực chất; chưa tham mưu tốt cho cấp ủy các cấp trong lãnh đạo, chỉ đạo công tác vận động quần chúng... 

Từ đó, Đảng bộ đã rút ra những bài học kinh nghiệm chủ yếu sau:

Một là: Giữ vững đoàn kết thống nhất trong Đảng; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có bản lĩnh chính trị vững vàng, có trình độ, năng lực và tâm huyết với sự nghiệp đổi mới của Đảng; đề cao vai trò, tính năng động, sáng tạo, chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.

Hai là: Xác định đúng được nhiệm vụ trọng tâm, trọng điểm, có quyết tâm chính trị cao để tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, đồng bộ, kiên quyết, tổ chức thực hiện quyết liệt, hiệu quả. Xác định rõ vai trò trách nhiệm của tầng tổ chức trong hệ thống chính trị, trước hết là người đứng đầu

Ba là: Tăng cường công tác kiểm tra đôn đốc, phát hiện biểu dương kịp thời những mô hình tốt, cách làm hay, chấn chỉnh kịp thời những lệch lạc, hạn chế khi mới phát sinh. Làm tốt công tác sơ tổng kết, rút ra bài học kinh nghiệm trong quá trình tổ chức thực hiện

 

Bốn là: Thường xuyên quan tâm, chăm lo công tác cán bộ, cả về trình độ năng lực chuyên môn, cả về phẩm chất đạo đức, lối sống, đồng thời bố trí, sử dụng cán bộ một cách hợp lý.

Ngày 5-8-2015, Đại hội Đại biểu Đảng bộ xã Sơn Bình lần thứ XXII (nhiệm kỳ 2015-2020) diễn ra tại Hội trường xã. Tham gia Đại hội có 131/294 đảng viên trong toàn Đảng bộ. Đại hội bầu Ban Chấp hành gồm 13 ủy viên. Đồng chí Nguyễn Thị Bình được bầu giữ chức vụ Bí thư Đảng ủy; đồng chí Nguyễn Minh Tuấn giữ chức vụ Phó Bí thư phụ trách trực Đảng; đồng chí Cù Xuân Điền được bầu giữ chức vụ Phó bí thư, Chủ tịch Ủy ban nhân dân.

Phương hướng chung của nhiệm kỳ 2015-2020 được Đại hội Đảng bộ xác định là: Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ, phát huy sức mạnh đoàn kết, truyền thống quê hương anh hùng, huy động mọi nguồn lực đẩy mạnh phát triển KT, VH - XH, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân  giữ vững QP - AN, đầu tư kết cấu hạ tầng đồng bộ, xây dựng Sơn Bình đạt xã nông thôn mới.

          Đảng bộ xã Sơn Bình đã đề ra các mục tiêu, chỉ tiêu tổng quát đến năm 2020: Phấn đấu hoàn thành 16/18 tiêu chí NTM. Tổng giá trị sản xuất 331 tỷ; Thu nhập bình quân đầu người đạt 50 triệu đồng/năm; Về cơ cấu kinh tế: Nông nghiệp 46%, TTCN 22%, thương mại - dịch vụ 32%; Sản lượng lương thực có hạt đạt 1450 tấn; Sản lượng thịt 220 tấn; giá trị sản xuất bình quân/ha canh tác 100 triệu đồng; Tổng đàn trâu, bò 615 con; lợn 11000 con; hươu 625 con; gia cầm 37000 con; Mỗi năm thành lập mới 03 doanh nghiệp, 02 HTX, 06 tổ hợp tác có liên kết; phấn đấu đến năm 2020 có trên 50 mô hình mới có thu nhập trên 100 triệu đồng; Thu ngân sách nhà nước trên địa bàn năm 2020 phấn đấu đạt 1 tỷ đồng; Tỷ lệ hộ nghèo đến cuối nhiệm kỳ còn dưới 5%, cận nghèo đến cuối nhiệm kỳ dưới 7%; Hàng năm xây dựng mới trên 3 km giao thông và 500m kênh mương nội đồng đạt chuẩn; Tiếp tục đầu tư xây dựng trường học phấn đấu đến năm 2017 đạt tiêu chí NTM về trường học; Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt  65%.

         - Tỷ lệ người dân tham gia BHYT đạt 85%; Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên hàng năm 0,55%; Giảm tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng dưới 10%; Tỷ lệ đơn vị, thôn xóm đạt danh hiệu văn hóa từ 70- 80%; Tỷ lệ gia đình đạt tiêu chuẩn gia đình văn hóa đạt trên 80%.; xây dựng mới nhà văn hóa xã; xây dựng mới 02 nhà văn hóa thôn; 90% cơ sở sản xuất kinh doanh đạt tiêu chí về môi trường; 90% rác thải được thu gom, xử lý đúng quy định; Cơ sở vững mạnh toàn diện an toàn làm chủ, sẵn sàng chiến đấu; quốc phòng, an ninh được giữ vững; 100% cán bộ công xã đạt chuẩn, 80% chi bộ Đảng trở lên đạt trong sạch vững mạnh, không có chi bộ yếu kém, kết nạp 50 đảng viên mới; Đảng bộ đạt trong sạch vững mạnh và trong sạch vững mạnh tiêu biểu.

Đại hội cũng đã đề ra các nhiệm vụ và giải pháp cụ thể để đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh, tăng cường công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. 

Trước yêu cầu phát triển của giai đoạn mới, nhiệm vụ đặt ra cho nhiệm kỳ 2015-2020 là khá nặng nề. Tuy nhiên, với tinh thần đoàn kết, trí tuệ, dân chủ, đổi mới, phát huy truyền thống quê hương anh hùng và những thành quả đã đạt được, nhất định Đảng bộ và nhân dân xã Sơn Bình chắc chắn sẽ thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội nhiệm kỳ 2015- 2020, đưa quê hương tiến lên vững chắc, nhân dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc.           

 

KẾT LUẬN

Ng­îc dòng lịch sử trở về mảnh đất Sơn Bình yêu dấu, nơi có khai quốc công thần Nguyễn Lỗi và những người con đã vinh quy bái tổ, làm rạng danh mảnh đất Sơn Bình. Từ hai làng Yên Đồng và Bảo Thịnh dưới các triều đại phong kiến từ mảnh đất còn hoang sơ cha ông ta đã xây dựng nên một xã Sơn Bình thịnh vượng, có một nền kinh tế sung túc, chính trị ổn định quốc phòng, an ninh được đảm bảo, với tinh thần trung quân, ái quốc, có một nền văn hóa lành mạnh, trong sáng, thể hiện tinh thần độc lập, tự chủ của  nhân dân.

Truyền thống cách mạng, lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết của người dân Sơn Bình càng được phát huy cao độ khi có Đảng soi đường dẫn lối. Chỉ mấy tháng sau khi Đảng bộ huyện Hương Sơn được thành lập với 17 đảng viên, trong đó có đồng chí Nguyễn Mật là đảng viên ở chi bộ trường Thịnh Xá, quê ở làng Yên Đồng đã về đây để gây cơ sở hoạt động cách mạng và Nông hội đỏ được thành lập, từ đây kêu gọi và tập hợp nhân dân trong xã tiến hành đấu tranh chống lại bọn thực dân, phong kiến. Trong phong trào này nhiều đồng chí của chúng ta đã bị bắt và thật gan dạ thay cho tinh thần “nếm mật nằm gai” của các đồng chí như Nguyễn Mật, Lê Xuân Thống, Nguyễn Hữu Quang, Cù Lương Năng, Nguyễn Bạn, Trần Đình Hòe... trước sự tra tấn dã man của kẻ địch vẫn trung kiên. Ngày 17-8-1945, Ban Chấp hành Mặt trận Việt Minh hai làng Yên Đồng và Bảo Thịnh đã họp để quán triệt lệnh tổng khởi nghĩa toàn quốc của Trung ương Đảng và Bác Hồ; Dưới sự chỉ đạo của Mặt trận Việt Minh trực tiếp là đồng chí Nguyễn Mật đã lãnh đạo ở làng Yên Đồng cướp chính quyền vào ngày 18-8-1945 và cử đồng chí Lê Kiểm làm Chủ tịch Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời cùng với 2 ủy viên đó là đồng chí Hà Huy Mạn và đồng chí Lê Kính, còn ở làng Bảo Thịnh có khó khăn hơn nên Mặt trận Việt Minh quyết định lùi ngày khởi nghĩa cùng với ngày tổng khởi nghĩa của toàn huyện vào ngày 19-8-1945; thống nhất cử đồng chí Nguyễn Tấn làm Chủ tịch Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời cùng với  ủy viên là đồng chí Nguyễn Hữu Quang, thế là chỉ trong thời gian ngắn hai làng Yên Đồng và Bảo Thịnh đã cướp chính quyền từ tay Phát xít Nhật. Sự cống hiến gian khổ, sự mất mát hy sinh đó nay đã được Đảng và Nhà nước vinh danh, khi xã Sơn Bình có tới 9 cụ Lão thành cách mạng (Hồ sơ được lưu trữ ở Cục an ninh, Bộ Công an, Hồ sơ được Tổng Thống Cộng hòa Pháp Mít Tơ Răng trao tặng), 7 cụ là cán bộ tiền khởi nghĩa. Từ đây, nhân dân hai làng Yên Đồng và Bảo Thịnh nói riêng và nhân dân huyện Hương Sơn và cả nước nói chung đã giành chính quyền cách mạng đã về tay nhân dân, nhân dân xã nhà được làm chủ, được tự do, được bình đẳng dưới chế độ của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Cách mạng tháng Tám thành công cả nước lại chuyển mình vào một cuộc đấu tranh trường kỳ và gian khổ hơn. Cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược lần thứ II. Khi chiến tranh chống Thực dân Pháp thắng lợi được đánh dấu bằng chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ chấn động địa cầu. Tưởng rằng hạnh phúc đã là đây nhưng nỗi đau của chiến tranh lại một lần nữa hằn lên khóe mắt của những người mẹ, người vợ khi đất nước ta lại bị chia cắt ở vĩ tuyến 17. Cùng với nhân dân cả nước, nhân dân xã Sơn Bình lại gác lại mọi hạnh phúc riêng tư tất cả tập trung cho tiền tuyến. Với khẩu hiệu “tất cả vì miền Nam ruột thịt”, “đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào”; “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”. Lớp lớp người con của quê hương Sơn Bình đã xung phong lên đường làm nhiệm vụ, 565 người con ưu tú tình nguyện tòng quân vào quân đội, 672 người tham gia dân quân trực chiến; 203 dân công hỏa tuyến, 73 người, thanh niên xung phong.

Trong hai cuộc kháng chiến, huyện Hương Sơn nói chung, xã Sơn Bình nói riêng là địa bàn có vị trí chiến lược đặc biệt, nằm trên huyết mạch giao thông quan trọng của con đường 8 cầu Cửa Khâu, nên nhân dân xã Sơn Bình cũng phải hứng chịu sự tàn phá ác liệt của đế quốc Mỹ. Vượt lên  tất cả đau thương trong những năm tháng chiến tranh người dân xã Sơn Bình đã làm tốt công tác hậu phương quân đội vừa chăm lo xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc vừa chi viện cho tiền tuyến miền Nam. Đón nhận chăm sóc, nuôi dưỡng thương binh, nhường đất, nhường nhà cho bộ đội, chi viện cho tiền tuyến và những trận đánh rơi máy bay B52,...

Tất cả, tất cả đã làm cho chúng ta hiểu được sâu sắc một Sơn Bình anh hùng trong hai cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc.Với những thành tích đó,  cán bộ và nhân dân xã Sơn Bình đã được Đảng, Nhà nước tặng 2 Huân chương về thành tích bắn rơi máy bay, 3 bằng khen của Bộ Quốc phòng và Bộ Giao thông vận tải; 1 Huân chương Quân công hạng Ba. Năm 2005, xã Sơn Bình vinh dự được Đảng và Nhà nước phong tặng danh hiệu Đơn vị anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Truyền thống oanh liệt, vẻ vang đó là bài học kinh nghiệm, là niềm tin để cho cán bộ và nhân dân Sơn Bình bước sang một trang sử mới cũng không kém phần gian khổ và thử thách.

Trải qua gần 30 năm đổi mới, đất nước ta đã có sự thay da đổi thịt với một tầm cao mới, vị thế mới. Hòa chung trong nhịp đập đó, Đảng bộ và nhân dân xã Sơn Bình qua từng thời kỳ đã vượt lên những nỗi đau của chiến tranh, quyết tâm từng bước xây dựng xã nhà giàu mạnh về kinh tế, ổn định về chính trị, văn hóa, xã hội từng bước được đi lên. 

          Từ một xã nghèo phải chịu nhiều hậu quả nặng nề do chiến tranh để lại nên việc khôi phục và hàn gắn vết thương của chiến tranh là một nhiệm vụ hết sức nặng nề. Nhưng cán bộ và nhân dân xã Sơn Bình với truyền thống anh hùng, và tinh thần chịu khó, ham học, cần cù, yêu lao động đã từng bước, từng bước xây dựng xã nhà ngày càng một khang trang hơn, to đẹp hơn. Cở sở hạ tầng ngày càng được đầu tư xây dựng, những con đường liên xã, liên thôn được mở ra kết nối với các xã, các làng tạo điều kiện cho nhân dân đi lại và giao thương thuận tiện, các công trình thủy lợi được quan tâm đầu tư, nhân dân phấn khởi thi đua lao động sản xuất, tiếng cười vui của nhân dân vang khắp cả làng quê.

          Từ thực tiễn của quá trình lãnh đạo phong trào cách mạng, Đảng bộ xã đã rút ra mấy kết luận sau đây, đồng thời cũng là bài học để chúng ta bước tiếp trên con đường công nghiệp hoá hiện đại hoá quê hương Sơn Bình:

        Thứ nhất: Sự lãnh đạo của Đảng bộ là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của sự nghiệp cách mạng xã nhà. Từ khi chi bộ Đảng được thành lập dù là Yên Đồng, Bảo Thịnh của xã Dương Trai hay xã Sơn Bình thì chi bộ luôn giữ vai trò là nhân tố lãnh đạo, quyết định mọi chuyển biến của tình hình địa phương. Từ ngày Đảng bộ xã Sơn Bình được thành lập thì vai trò đó được thể hiện rõ hơn bao giờ hết, Đảng bộ đã lãnh đạo nhân dân xây dựng và bảo vệ thành công quê hương, thực hiện đổi mới đất nước giành được những kết quả quan trọng. Do đó, cần coi trọng công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; tăng cường khổi đoàn kết và sức chiến đấu của tổ chức Đảng; luôn giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng trong mọi tình huống.

        Thứ hai: Chủ thể của mọi thắng lợi cách mạng ở địa phương chính là quần chúng nhân dân. Lịch sử cho thấy sự đoàn kết toàn dân đã tạo nên sức mạnh to lớn có thể đánh bại mọi kẻ thù, có thể vượt qua mọi khó khăn, hoàn thành những nhiệm vụ cách mạng to lớn. Vì vậy, phải luôn chăm lo xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân vững mạnh, bồi dưỡng sức dân, chú trọng công tác vận động quần chúng, củng cố và phát triển mối quan hệ máu thịt giữ Đảng và nhân dân. Phải biết dựa vào dân trong việc thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội ở địa phương.

        Thứ ba: Phải chăm lo xây dựng chính quyền và các tổ chức đoàn thể quần chúng của xã vững mạnh, đủ sức thực hiện các nhiệm vụ cách mạng. Trong suốt chiều dài lịch sử đấu trang giành và bảo vệ độc lập dân tộc, quê hương, sự vững mạnh của chính quyền và các tổ chức đoàn thể quần chúng là một vấn đề hết sức quan trọng, góp phần vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. Chính quyền chính là công cụ để thực hiện các đường lối, chính sách của Đảng, ý chí của nhân dân. Trong bất cứ hoàn cảnh lịch sử nào, nhiệm vụ bảo vệ chính quyền thực sự là của dân, do dân là nhiệm vụ cần kíp và trọng tâm. Đồng thời phải chú trọng xây dựng và củng cố Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức đoàn thể quần chúng, chăm lo xây dựng lực lượng vũ trang, công an nhân dân. 

          Thứ 4: Biết phát huy nội lực, tranh thủ ngoại lực thì nhất định sẽ đem lại hiệu quả, rút ngắn thời gian, lòng tin càng được nhân lên. Luôn luôn bám sát chủ trương, chính sách của Đảng cấp trên, nắm vững đặc điểm tình hình xã nhà để đề ra chủ trương, biện pháp đúng đắn để phát triển kinh tế - xã hội địa phương, đẩy mạnh sự nghiệp xóa đói giảm nghèo, cải thiện đời sống cho nhân dân.

          Thứ 5: Luôn giáo dục truyền thống của quê hương cho thế hệ kế tiếp, lấy sức mạnh tinh thần yêu thương quê hương, yêu Tổ quốc; lấy truyền thống đấu tranh và xây dựng của quê hương làm nguồn lực của nền tảng tinh thần, của sự phát triển trong giai đoạn kế tiếp.

        Trong thời gian tới với những thuận lợi mới và tiềm năng sẵn có, phát huy những thành tựu đã đạt được và truyền thống tốt đẹp của quê hương, Đảng bộ và nhân dân Sơn Bình sẽ cùng nhau phấn đấu trong sự nghiệp phát triển quê hương, vươn lên chiến thắng đói nghèo, hoàn thành các tiêu chí nông thôn mới, trở thành một xã vững mạnh về mọi mặt, tiến được những bước dài trên con đường xây dựng quê hương ngày càng đổi mới, trong sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.

 

 

 

           

          

       

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

     PHỤ LỤC

I. Danh sách mẹ Việt Nam anh hùng

TT

Họ và tên

Năm sinh

Thôn

Ghi chú

1

Nguyễn Thị Nguyên

1909

 

 

2

Nguyễn Thị Tịnh

1910

 

 

3

Nguyễn Thị Ngoéc

1919

 

 

4

Trần Thị Hương

1926

 

 

5

Lê Thị Minh

1908

 

 

6

Dương Thị Quỳ

1908

 

 

7

Lương Thị Châu

1915

 

 

8

Nguyễn Thị Oanh

1918

 

 

9

 

 

 

 

10

 

 

 

 

11

 

 

 

 

12

 

 

 

 

13

 

 

 

 

14

 

 

 

 

15

 

 

 

 

16

 

 

 

 

17

 

 

 

 

18

 

 

 

 

19

 

 

 

 

20

 

 

 

 

 

II. Danh sách cán bộ lão thành cách mạng, tiền khởi nghĩa

TT

Họ và tên

Năm sinh

Ghi chú

 

1

Nguyễn Mật

1911

Cán bộ lão thành cách mạng

2

Nguyễn Hữu Quang

1914

Cán bộ lão thành cách mạng

3

Nguyễn Nhận

1916

Cán bộ lão thành cách mạng

4

Lê Cự Hiếu

1914

Cán bộ lão thành cách mạng

5

Lê Xuân Thống

?

Cán bộ lão thành cách mạng

6

Nguyễn Bạn

1911

Cán bộ lão thành cách mạng

7

Cù Lương Năng

1890

Cán bộ lão thành cách mạng

8

Cù Xuân Hòe

1922

Cán bộ tiền khởi nghĩa

9

Lê Kiểm

1921

Cán bộ tiền khởi nghĩa

10

Lê Mưu

1923

Cán bộ tiền khởi nghĩa

11

Nguyễn Hồng Cúc

1922

Cán bộ tiền khởi nghĩa

12

Nguyễn Thị Nhận

1919

Cán bộ tiền khởi nghĩa

13

Nguyễn Thư

1920

Cán bộ tiền khởi nghĩa

14

Hà Huy An

?

Cán bộ tiền khởi nghĩa

15

Lê Hòe Mai

?

Cán bộ tiền khởi nghĩa

 

III. Danh sách liệt sỹ

TT

Họ và tên

Ngày sinh

Ngày nhập ngũ

Hy sinh

1

Nguyễn Lan

 

11/1946

1/1947

2

Nguyễn Quỳnh

 

 

12/25/1947

3

Nguyễn Xuân Sơn

1921

6/1945

5/10/1948

4

Nguyễn Hữu Hành

 

1/1946

7/1949

5

Lê Hạ

1924

1949

10/11/1949

6

Nguyễn Thúc Cung

 

11/1949

1949

7

Nguyễn Thuận

1927

1950

1/1950

8

Cao Quyền

1928

11/1948

10/2/1950

9

Nguyễn Đình Đào

1929

2/1947

2/5/1951

10

Lê Nguyên

 

1/1949

2/1951

11

Nguyễn Đình Trà

 

1949

3/29/1951

12

Nguyễn Xước

 

2/1948

10/23/1951

13

Nguyễn Luyện

 

11/1949

12/13/1951

14

Nguyễn Xuân Thao

 

11/1949

12/13/1951

15

Lê Định

1913

8/1949

12/1951

16

Lê Trọng Lự

 

8/1949

1/1952

17

Lê Sâm

 

11/1948

2/2/1952

18

Nguyễn Văn Ba

1928

1/1947

2/3/1952

19

Cù Xuân Diệu

 

9/1951

3/15/1952

20

Lê Cát

 

8/1949

11/29/1952

21

Nguyễn Đình Xuân

1926

10/1952

1952

22

Nguyễn Văn Hòa

1914

 

1/20/1953

23

Nguyễn Trường Sinh

1927

3/1953

3/27/1953

24

Hoàng Hành

 

 

12/12/1953

25

Nguyễn Đình Thành

1925

1/1946

6/1953

26

Cao Lương

 

3/1950

10/31/1954

27

Nguyễn Viện

1935

10/1952

3/19/1954

28

Nguyễn Văn Minh

 

10/1954

3/26/1954

29

Nguyễn Khiêm

1929

10/1952

3/1954

30

Lê Khắc Minh

 

5/1950

4/1/1954

31

Lê Xuân Diêm

1911

4/1952

4/24/1954

32

Cù Xuân Chỉnh

 

1/1950

11/6/1954

33

Nguyễn Khoa

 

5/1950

4/1954

34

Nguyễn Xuân Tùng

 

 

 

35

Nguyễn Sàn

1927

8/1949

1954

36

Nguyễn Văn Bình

 

 

1956

37

Cù Xuân Cận

 

 

 

38

Phạm Quảng

 

 

 

39

Nguyễn Xuân Lan

1923

12/1949

26/10/1951

40

Nguyễn Văn Nguyên

1941

2/1961

4/24/1962

41

Lê Đình Tố

1935

2/1960

12/27/1963

42

Lê Hòe Mận

1940

3/1959

9/28/1964

43

Nguyễn Văn Giao

1942

2/1961

12/27/1963

44

Lê Trọng Nại

1942

4/1963

3/23/1965

45

Nguyễn Thị Hạnh

1946

9/1965

9/4/1965

46

Nguyễn Hữu Tạo

1923

9/1965

9/4/1965

47

Nguyễn Văn Thành

1930

9/1965

9/4/1965

48

Nguyễn Thân

 

9/1965

9/4/1965

49

Hoàng Sỹ Cẩm

1944

2/1965

11/18/1965

50

Nguyễn Đình Hạn

1944

2/1961

11/25/1965

51

Nguyễn Qúy

1943

11/1964

12/5/1965

52

Lê Thanh Tùng

1938

4/1960

12/22/1965

53

Hà Huy Qùy

1943

11/1964

2/17/1966

54

Cù Xuân Lượng

1942

4/1963

2/26/1966

55

Cù Xuân Cương

1942

4/1963

4/5/1966

56

Nguyễn Đình Xu

1942

11/1960

7/7/1966

57

Nguyễn Tử Qúy

1944

7/1965

9/3/1966

58

Lê Xuân Đề

1943

10/1963

10/25/1966

59

Nguyễn Đình Hậu

1942

11/1961

11/26/1966

60

Nguyễn Văn Thường

1945

11/1964

1/25/1967

61

Lê Văn Phú

1934

3/1965

2/28/1967

62

Nguyễn Đình Lộc

1948

2/1965

3/11/1967

63

Nguyễn Đình Văn

1942

4/1963

4/15/1967

64

Nguyễn Văn Bảy

 

5/1965

5/8/1967

65

Lê Bá Trạc

1938

5/1965

5/8/1967

66

Hà Huy Kỳ

1944

6/1965

5/15/1967

67

Nguyễn Đình Miên

 

5/1965

5/18/1967

68

Hà Huy Tính

1944

6/1963

7/1/1967

69

Nguyễn Đức Qúy

1933

2/1960

8/20/1967

70

Cao Cửu

1942

2/1961

9/4/1967

71

Lê Hồng Hoàn

1944

10/1965

10/25/1967

72

Nguyễn Đức Thìn

1942

7/1961

10/30/1967

73

Lê Dương

1944

10/1965

10/25/1967

74

Nguyễn Thị Thìn

1945

5/1965

12/28/1967

75

Nguyễn Nhật Lệ

1949

7/1967

1/12/1968

76

Nguyễn Văn Đàn

 

 

1/31/1968

77

Nguyễn Huy Hoàng

1943

11/1961

2/6/1968

78

Nguyễn Mạnh Hý

1946

6/1965

2/25/1968

79

Nguyễn Hồng Khương

1935

2/1954

2/25/1968

80

Nguyễn Viên

1946

2/1965

3/13/1968

81

Nguyễn Đình Bạng

1946

2/1965

3/14/1968

82

Nguyễn Thị Thanh

1945

5/1965

5/7/1968

83

Cù Xuân Điều

1940

3/1959

5/8/1968

84

Cao Khôi

1942

4/1963

5/10/1968

85

Cù Xuân Lai

1948

7/1967

5/13/1968

86

Nguyễn Trọng Tài

 

1/1967

5/28/1968

87

Phan Xuân Liên

1943

11/1964

6/1/1968

88

Nguyễn Xuân Mạo

1938

3/1969

9/7/1968

89

Dương Tùng

 

1/1967

11/11/1968

90

Cù Xuân Cầu

1940

3/1963

11/21/1968

91

Nguyễn Văn Hồng

1948

12/1967

11/23/1968

92

Lê Trọng Liễu

1939

3/1967

12/16/1968

93

Phan Đức Tý

1950

12/1967

12/1968

94

Nguyễn Xuân Trường

1935

4/1965

3/2/1969

95

Nguyễn Công Hóa

1943

2/1961

5/11/1969

96

Nguyễn Văn Anh

1946

2/1965

6/13/1969

97

Hà Huy Trì

1947

3/1967

9/7/1969

98

Nguyễn Hữu Học

1938

6/1968

11/25/1969

99

Dương Đình Lan

 

8/1968

12/1/1969

100

Cù Xuân Mạnh

1945

6/1963

1/13/1970

101

Đinh Nho Cương

1946

7/1968

4/12/1970

102

Lê Trọng Giao

1950

4/1968

7/14/1970

103

Nguyễn Xuân Bình

1948

7/1968

8/24/1970

104

Nguyễn Viết Kỳ

1940

3/1959

12/25/1970

105

Nguyễn Văn Sàn

1950

7/1968

1/8/1971

106

Nguyễn Xuân Khánh

1942

4/1963

1/25/1971

107

Nguyễn Văn Cúc

1947

1/1968

2/12/1971

108

Nguyễn Hồng

1952

12/1969

8/20/1971

109

Hoàng Xuân Bằng

1936

2/1964

10/12/1971

110

Nguyễn Văn Hiển

1952

4/1970

12/9/1971

111

Lê Quốc Bửu

1948

4/1968

2/17/1972

112

Nguyễn Văn Mong

1950

6/1968

4/8/1972

113

Lê Phùng

1948

2/1968

4/28/1972

114

Hà Huy Bảo

1953

1/1971

5/1/1972

115

Nguyễn Văn Vỵ

 

5/1965

5/8/1972

116

Hà Huy Hồng

1952

2/1970

5/28/1972

117

Nguyễn Thị Mai

1948

5/1966

7/31/1972

118

Nguyễn Thị Hồng

1948

7/1966

9/23/1972

119

Phạm Ngọc Vân

1946

2/1965

10/25/1972

120

Lê Chiêu Thống

1950

7/1968

11/25/1972

121

Nguyễn Văn Lợi

 

1/1971

1/27/1973

122

Nguyễn Quốc Đình

1949

11/1967

6/15/1973

123

Nguyễn Văn Đinh

1951

4/1970

3/28/1974

124

Cù Xuân Nhạc

1951

4/1970

4/11/1974

125

Nguyễn Văn Niên

1946

7/1967

6/25/1974

126

Nguyễn Thiều

1952

7/1969

7/5/1974

127

Nguyễn Văn Thái

1953

2/1972

8/28/1974

128

Lê Đình Diên

1953

8/1971

3/6/1975

129

Huỳnh Ngọc Hạnh

1947

5/1969

8/12/1978

130

Dương Đình Phú

1952

1/1971

6/15/1975

131

Nguyễn Thanh Bình

1956

8/1976

8/12/1978

132

Nguyễn Mạnh Hùng

1958

10/1974

9/25/1978

133

Nguyễn Đình Vỹ

1958

8/1976

2/26/1979

134

Lê Trọng Bàng

1954

12/1972

3/21/1979

135

Nguyễn Thanh Bình

1953

4/1975

4/11/1979

136

Nguyễn Công Trí

1956

3/1975

11/2/1979

137

Lê Trọng Bình

1962

4/1981

12/21/1983

138

Nguyễn Văn Bắc

1958

8/1983

5/1/1986

139

Nguyễn Thanh  Kỳ

 

 

 

140

Lê Ngọc Anh

 

 

6/7/1947

141

Lê Dương

 

 

7/1/1951

142

Lê Đình Dụng

1931

2/1949

10/10/1949

143

Nguyễn Văn Bình

1956

11/1978

3/2/1979

144

Hà Huy Lâm

1961

3/1979

7/3/1980

145

Nguyễn Thanh Quý

1944

2/1960

6/16/2009

 

IV. Danh sách Bí thư Chi bộ, Đảng bộ xã qua các thời kỳ

TT

HỌ VÀ TÊN

THỜI KỲ

1

Lê Kiểm

1945

2

Nguyễn Nhận

1945-4/1946;

 4/1946- 8/1947

3

Lê Kiểm

 9/1947- 4/1949

4

Nguyễn Xuân Thiều

5/1949-6/1950

5

Nguyễn Khắc Cận

9/1952-6/1954

6

Nguyễn Đình Nghị

7/1954-5/1955;

12/1955-7/1957;

4/1961-7/1962;

 6/1964 - 6/1966

7

Hoàng Thưởng

6/1955-11/1956

8

Nguyễn Năng Thanh

8/1957-3/1961

9

Lê Mười

8/1962- 5/1964

10

Nguyễn Tuyến

 7/1966 - 5/1968

11

Nguyễn Xá

6/1968 - 8/1972

12

Nguyễn Quang

9/1972-8/1974;

9/1974-11/1975

13

Lê Triêm

1975-1976;

1976-1977;

1977-1978;

1979-1980;

1981-1982

14

Lê Kính

1982-1985

15

Nguyễn Phi Khanh

1985-1987

16

Nguyễn Nhiên

1987-1992

17

Nguyễn Văn Lương

1992-1995;

1995-2000;

2000-2004

18

Lê Quýnh

2004-2010

19

Lê Thanh Trường

2010-2013

20

Nguyễn Thị Bình

2013-2015;

 2015-nay

 

V. Danh sách Phó Bí thư, trực Đảng ủy qua các thời kỳ

TT

HỌ VÀ TÊN

THỜI KỲ

1

Nguyễn Xuân Thiều

 

2

Nguyễn Đóa

 

3

Nguyễn Tứ

 

4

Phạm Tài

 

5

Lê Kính

 

6

Nguyễn Bút

 

7

Nguyễn Thế Mạnh

 

8

Nguyễn Xá

 

9

Cao Phúc

 

10

Nguyễn Ngoạn

 

11

Nguyễn Hữu Ngôn

 

12

Nguyễn Thị Hưng

 

13

Nguyễn Quốc Trị

 

14

Trần Đức

 

15

Nguyễn Quang

1985-1987

16

Nguyễn Văn Lương

 

17

Nguyễn Nhiên

 

18

Lê Quýnh

 

19

Phạm Thị Liệu

 

20

Cù Xuân Điền

2005-2010

21

Nguyễn Thị Bình

2010-1013

22

Nguyễn Minh Tuấn

2013-2015;

2015-nay

 

VI. Danh sách Chủ tịch UBKCHC, UBHC, UBND xã qua các thời kỳ

TT

HỌ VÀ TÊN

THỜI KỲ

1

Lê Kiểm

1945

2

Nguyễn Tấn

1945-4/1946;

4/1946-8/1947

3

Chủ tịch người Sơn Hà

 9/1947-4/1949

4

Chủ tịch người Sơn Hà

5/1949-6/1950

5

Chủ tịch người Sơn Hà

9/1952-6/1954

6

Nguyễn Thị Sinh

7/1954-5/1955

7

Nguyễn Thuận

6/1955-11/1956

8

Nguyễn Đình Nghị

12/1955-7/1957;

8/1957-3/1961;

8/1962-5/1964

9

Lê Mười

4/1961-7/1962

10

Nguyễn Xá

6/1964-6/1966;

 7/1966-5/1968

11

Nguyễn Thị Hưng

6/1968-8/1972;

1975-1976

12

Lê Triêm

9/1972-8/1974;

9/1974-11/1975

13

Nguyễn Hữu Ngôn

  1976-1977;

1977-1978;

1979-1980

14

Cù Xuân Nhã

1981-1982;

 1982-1985

15

Lê Quýnh

1985-1987

16

Nguyễn Nhiên

1987-1992

17

Lê Tôn Báo

1992- 1995;

1995-2000;

 2000-2004

18

Trần Hữu Bá

2004-2010

19

Cù Xuân Điền

2010-2013;

 2013-2015;

 2015-nay

 

VII. Danh sách Phó Chủ tịch xã qua các thời kỳ

TT

HỌ VÀ TÊN

THỜI KỲ

1

Nguyễn Thị Minh

 

2

Nguyễn Xá

 

7

Nguyễn Thị Thụy

 

8

Nguyễn Thắng Lợi

 

9

Nguyễn Thị Hưng

 

10

Phạm Thị Huế

 

11

Nguyễn Thắng Lợi

 

12

Nguyễn Khương

 

13

Nguyễn Dương

 

14

Trần Hữu Bá

 

15

Phạm Trọng Luận

 

16

Nguyễn Huy Lợi

 

 

VIII. Danh sách Chủ tịch HĐND xã qua các thời kỳ

TT

HỌ VÀ TÊN

THỜI KỲ

1

Nguyễn Văn Lương

 

2

Cù Xuân Điền

 

3

Lê Thanh Trường

 

4

Nguyễn Minh Tuấn

 

 

IX. Danh sách Chủ tịch UBMTTQ qua các thời kỳ

TT

HỌ VÀ TÊN

THỜI KỲ

1

Lê Quyền

 

2

Lê Thị Lan

 

3

Nguyễn Quang

 

4

Lê Quýnh

 

5

Phạm Thị Phượng

 

6

Vũ Thị Hoa

 

 

X. Danh sách Chủ nhiệm HTX qua các thời kỳ

TT

HỌ VÀ TÊN

HỢP TÁC XÃ

THỜI KỲ

HTX BẬC THẤP CƠ SỞ

1

 

 

 

2

 

 

 

3

 

 

 

4

 

 

 

5

 

 

 

6

 

 

 

7

 

 

 

8

 

 

 

HTX LIÊN HỢP BẬC THẤP

1

 

 

 

2

 

 

 

3

 

 

 

HTX LIÊN HỢP BẬC CAO

1

 

 

 

HTX MUA BÁN

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

HTX TÍN DỤNG

 

 

 

 

 

XI. Danh sách Chủ tịch Hội LHPN xã qua các thời kỳ.

TT

HỌ VÀ TÊN

THỜI KỲ

1

Nguyễn Thị Thụy

1954 - 1955

2

Nguyễn Thị Quang

1955 - 1962

3

Lê Thị Lan

1962 - 1972

4

Phan Thị Oanh

1972 - 1986

5

Trần Thị Lý

1986 - 1988

6

Lê Thị Xuân

1988 - 1994

7

Phạm Thị Phượng

1994 - 2001

8

Nguyễn Thị Bình

2001 - 2010

9

Nguyễn Thị Thanh Huyền

2010 - 2015

10

Trần Thị Tâm

2015-nay

 

XII. Danh sách Chủ tịch Hội nông dân xã qua các thời kỳ

TT

HỌ VÀ TÊN

THỜI KỲ

1

Nguyễn Ngụ

 

2

Nguyễn Quang

 

3

Cao Bát

 

4

Nguyễn Thị Liệu

 

5

Nguyễn Nhiên

 

6

Lê Ánh Thuyết

 

XIII. Danh sách Chủ tịch Hội Cựu chiến binh xã qua các thời kỳ

TT

HỌ VÀ TÊN

THỜI KỲ

1

Nguyễn Thanh Viêm

1990-1999

2

Nguyễn Văn Dần

1999-2005

3

Nguyễn Đức Hiến

2006-2011

4

Nguyễn Quang Huy

2012-nay

XIV. Danh sách Bí thư Đoàn thanh niên qua các thời kỳ

TT

HỌ VÀ TÊN

THỜI KỲ

1

Nguyễn Ngụ

 

2

Cù Thị Tứ

 

3

Nguyễn Huệ

 

4

Nguyễn Quốc Trị

 

5

Lê Nghiên

 

6

Cù Thị Loan

 

7

Thái Thị Nhị

 

8

Nguyễn Nhiên

 

9

Trần Sơn

 

10

Trần Hữu Bá

 

11

NguyễnVăn Hy

 

12

Nguyễn Ngọc Danh

 

13

Cù Xuân Điền

1993-2004

14

Nguyễn Minh Tuấn

2004-2010

15

Nguyễn Huy Lợi

2010-2014

16

Lê Hùng Mạnh

2014-nay

 

XV. Danh sách đảng viên được tặng huy hiệu 30 tuổi Đảng trở lên

Chi Bộ 1.

TT

Họ và Tên

Ngày sinh

Ngày vào Đảng

Huy hiệu

Ghi chú

1

Nguyễn Chuyết

12/12/1933

27/9/1960

55 Năm

 

2

Nguyễn Thế Lương

03/3/1937

17/11/1967

50 Năm

 

3

Dương Thị Nga

07/8/1944

30/7/1966

50 Năm

 

4

Nguyễn Xuân Bình

12/12/1931

04/01/1964

50 Năm

 

5

Dương Đình Hợi

20/8/1950

17/7/1972

45 Năm

 

6

Nguyễn Thị Xuyến

20/6/1935

19/5/1970

45 Năm

 

7

Nguyễn Trung Sỹ

12/5/1946

10/01/1973

40 Năm

 

8

Nguyễn Quang Dượng

06/7/1940

30/5/1974

40 Năm

 

9

Phạm Thị Liệu

13/3/1950

17/3/1983

30 Năm

 

10

Lê Đức Hạnh

20/6/1952

16/11/1979

30 Năm

 

 

Chi Bộ 2.

TT

Họ và Tên

Ngày sinh

Ngày vào Đảng

Huy hiệu

Ghi chú

1

Nguyễn Thị Quảng

20/10/1929

10/10/1948

65 Năm

 

2

Lê Soạn

25/9/1921

14/7/1949

65 Năm

 

3

Lê Hữu Tạo

04/9/1927

20/8/1948

65 Năm

 

4

Lê Thị Lý

10/9/1932

30/11/1949

65 Năm

 

5

Nguyễn Đình Châu

20/8/1918

15/8/1949

65 Năm

Đã mất

6

Nguyễn Xuân Cúc

01/12/1933

01/12/1953

60 Năm

 

7

Nguyễn Thị Thành

24/8/1937

17/8/1961

55 Năm

 

8

Nguyễn Thịnh

18/4/1941

19/02/1967

50 Năm

 

9

Hồ Hữu Trinh

19/10/1943

25/9/1967

50 Năm

 

10

Lê Thị Hồng Minh

22/12/1944

18/8/1966

50 Năm

 

11

Lê Tiến Sáu

17/10/1930

08/5/1967

50 Năm

 

12

Nguyễn Trọng Lâm

10/10/1949

27/5/1971

45 Năm

 

13

Nguyễn Xuân Dục

02/6/1948

03/02/1971

45 Năm

 

14

Lê Hải Bằng

08/5/1940

22/12/1969

45 Năm

 

15

Lê Trọng Điểu

11/01/1935

10/3/1969

45 Năm

 

16

Lê Văn Thưởng

01/12/1944

21/12/1969

45 Năm

 

17

Nguyễn Thị Cúc

10/4/1942

30/12/1967

45 Năm

 

18

Trần Sơn

20/11/1950

03/4/1977

40 Năm

 

19

Lê Quýnh

06/4/1950

04/11/1975

40 Năm

 

20

Lê Thanh Bình

11/01/1936

03/11/1980

30 Năm

 

21

Nguyễn Văn Hiền

20/5/1957

25/01/1981

30 Năm

 

22

Lê Thị Huyên

20/8/1953

28/8/1979

30 Năm

 

23

Lê Cẩm

28/6/1957

15/9/1980

30 Năm

 

24

Đinh Thị Thường

02/8/1960

20/11/1980

30 Năm

 

25

Nguyễn Thị Loan

28/12/1956

03/01/1984

30 Năm

 

26

Nguyễn Đình Phúc

02/6/1963

15/01/1987

30 Năm

 

 

Chi Bộ 3.

TT

Họ tên

Ngày sinh

Ngày kết nạp

Huy hiệu

Ghi chú

1

Nguyễn Thị Lợi

17/02/1925

22/12/1948

65 Năm

 

2

Nguyễn Văn Hóa

22/1/1927

02/02/1950

65 Năm

 

3

Lê Thị Thanh Hường

03/01/1932

10/6/1950

65 Năm

 

4

Nguyễn Thị Hóa

01/03/1928

08/1955

60 Năm

 

5

Nguyễn Đình Sâm

06/8/1931

03/03/1963

55 Năm

 

6

Nguyễn Văn Dần

25/12/1941

02/12/1963

50 Năm

 

7

Hà Huy Dật

11/01/1939

22/01/1968

50 Năm

 

8

Đoàn Thị Lan

12/11/1947

04/04/1967

50 Năm

 

9

Đoàn Thị Hạnh

13/10/1943

19/7/1966

50 Năm

 

10

Cù Thị Loan

13/12/1943

16/6/1964

50 Năm

 

11

Cù Thị Bích Lan

02/12/1940

03/01/1964

50 Năm

 

12

Nguyễn Thị Nguyên

17/7/1948

04/8/1966

50 Năm

 

13

Nguyễn Thị Hồng

19/12/1945

19/4/1967

50 Năm

 

14

Nguyễn Đình Lương

12/10/1935

10/7/1967

50 Năm

 

15

Lê Thuần

01/12/1933

19/10/1966

50 Năm

 

16

Lê Thị Xuân

05/10/1940

05/02/1966

50 Năm

 

17

Lê Văn Khác

29/11/1944

27/4/1967

50 Năm

 

18

Thái Thị Thành

20/4/1948

01/12/1969

45 Năm

 

19

Phạm Thi Hiền

06/02/1947

12/5/1970

45 Năm

 

20

Phạm Công Lý

19/02/1944

11/11/1968

45 Năm

 

21

Nguyễn Văn Lương

24/11/1946

21/10/1968

45 Năm

 

22

Nguyễn Quốc Trị

02/4/1947

25/9/1969

45 Năm

 

23

Lê Thị Lộc

09/02/1938

08/12/1967

45 Năm

 

24

Lê Hồng Hòa

20/03/1934

04/6/1969

45 Năm

 

25

Cù Xuân Thìn

10/01/1943

22/03/1968

45 Năm

 

26

Cù Xuân Quý

02/9/1954

30/11/1975

40 Năm

 

27

Cù Xuân Mậu

01/01/1948

19/8/1975

40 Năm

 

28

Cù Xuân Kính

24/10/1941

31/12/1977

40 Năm

 

29

Cù Xuân Ất

26/6/1954

15/7/1970

40 Năm

 

30

Nguyễn Nhiên

10/02/1950

05/6/1973

40 Năm

 

31

Hà Huy Thiều

08/10/1952

10/3/1973

40 Năm

 

32

Nguyễn Văn Hợp

20/11/1952

11/11/1978

30 Năm

 

33

Trần Hửu Bá

10/09/1957

02/02/1979

30 Năm

 

34

Nguyễn Khắc Công

19/8/1964

03/6/1986

30 Năm

 

35

Nguyễn Đình Hoài

15/10/1959

30/3/1986

30 Năm

 

 

 

Chi Bộ 4.

TT

Họ và Tên

Ngày sinh

Ngày vào Đảng

Huy hiệu

Ghi chú

1

Lê Mưu

03/3/1924

01/9/1945

70 Năm

 

2

Nguyễn Thanh Viêm

01/5/1927

01/02/1948

70 Năm

 

3

Phạm Thị Châu

20/02/1928

12/01/1949

65 Năm

 

4

Nguyễn Xuân Minh

20/07/1927

01/8/1950

65 Năm

Đã mất

5

Lê Xuân Quý

04/12/1928

05/10/1957

60 Năm

 

6

Nguyễn Năng Tịnh

03/09/1930

10/10/1960

55 Năm

 

7

Lê Nghiên

02/10/1936

02/01/1960

55 Năm

 

8

Nguyễn Thị Phê

06/02/1927

20/10/1960

55 Năm

 

9

Nguyễn Khắc Niễu

02/9/1938

03/3/1966

50 Năm

 

10

Nguyễn Đình Cúc

20/10/1945

10/4/1967

50 Năm

 

11

Nguyễn Đình Phúc

08/03/1939

07/5/1967

50 Năm

 

12

Nguyễn Phi Khanh

04/04/1940

11/02/1965

50 Năm

 

13

Nguyễn Đăng Khoa

05/05/1940

19/5/1964

50 Năm

 

14

Nguyễn Đình Thược

05.5.1945

26/4/1968

50 Năm

 

15

Nguyễn Quang

02.5.1935

03/11/1963

50 Năm

 

16

Phạm Thị Huế

01.11.1937

05/4/1966

50 Năm

 

17

Nguyễn Văn Liêu

12.02.1946

09/4/1966

50 Năm

 

18

Lê Triêm

10.01.1928

16/6/1961

50 Năm

 

19

Phan Văn Bút

20.01.1937

20/11/1966

50 Năm

 

20

Phan Thị Quý

12.3.1934

06/6/1967

50 Năm

 

21

Cao Bát

02.8.1940

17/3/1963

50 Năm

 

22

Nguyễn Thị Chanh

10.12.1941

08/7/1967

50 Năm

 

23

Phan Xuân Lan

21.02.1936

05/12/1969

45 Năm

 

24

Lê Ngọc Sơn

03.10.1938

08/10/1969

45 Năm

 

25

Cao Văn Quảng

08.4.1948

16/02/1969

45 Năm

 

26

Nguyễn Thị Bát

03.10.1938

19/5/1971

45 Năm

 

27

Phan Thị Thanh

09.02.1935

05/02/1969

45 Năm

 

28

Nguyễn Thế Kỷ

30.12.1948

02/7/1971

45 Năm

 

29

Hà Huy Đại

05.10.1945

01/01/1970

45 Năm

 

30

Nguyễn Huỳnh Điểu

30.4.1940

30/9/1970

45 Năm

 

31

Nguyễn Thị Kiểu

20.9.1951

03/02/1976

40 Năm

 

32

Nguyễn Hùng Mạnh

25.10.1952

20/01/1974

40 Năm

 

33

Cao Vinh

03.10.1952

15/4/1973

40 Năm

 

34

Lê Thị Hoài

02.9.1962

12/3/1982

30 Năm

 

35

Nguyễn Quang Huy

10.12.1952

17/4/1980

30 Năm

 

36

Nguyễn Văn Sỹ

10.6.1955

25/6/1982

30 Năm

 

37

Phạm Trọng Luận

03.3.1957

19/10/1980

30 Năm

Đã mất

38

Lê Ánh Thuyết

20.10.1957

29/01/1983

30 Năm

 

39

Lê Thị Hòa

19.12.1959

29/4/1981

30 Năm

 

40

Nguyễn Quốc

14.8.1961

12/6/1985

30 Năm

 

41

Nguyễn Trọng Bình

01.9.1960

15/3/1981

30 Năm

 

42

Nguyễn Trường Sơn

02.01.1959

30/4/1987

30 Năm

 

 

Chi Bộ 5.

TT

Họ và Tên

Ngày sinh

Ngày vào Đảng

Huy hiệu

Ghi chú

1

Nguyễn Ngoạn

06/06/1923

05/02/1949

65 năm

 

2

Đinh Nho Phương

20/4/1937

20/3/1962

55 Năm

 

3

Nguyễn Đình Liệu

06/6/1939

10/9/1963

50 năm

 

4

Lê Thị Lan

20/10/1935

17/8/1961

55 năm

 

5

Nguyễn Thị Mỹ

08/10/1934

05/5/1967

50 Năm

 

6

Thái Thị Quế

08/3/1943

01/3/1967

50 năm

 

7

Lê Văn Đào

02/9/1940

02/3/1965

50 năm

 

8

Phan Thanh Nghi

10/8/1947

07/02/1967

50 Năm

 

9

Nguyễn Hiến

 

 

50 Năm

Đã mất

10

Nguyễn Quốc Đang

20/8/1937

05/4/1968

45 Năm

 

11

Phan Xuân Nhâm

10/02/1943

16/9/1968

45 Năm

 

12

Nguyễn Quốc Báo

20/4/1954

02/3/1975

40 Năm

 

13

Nguyễn Quốc Khánh

21/7/1953

09/01/1974

30 Năm

 

14

Lê Quang Trung

24/01/1954

30/3/1974

40 Năm

 

15

Nguyễn Dương

25/5/1952

20/12/1972

40 Năm

 

16

Phan Ngọc Thắng

24/3/1951

11/7/1973

40 Năm

 

17

Nguyễn Hữu Ngôn

20/6/1930

10/10/1955

60 Năm

Đã mất

18

Phạm Quyền

13/5/1926

05/8/1949

65 Năm

Đã mất

 

Chi Bộ 6.

TT

Họ và Tên

Ngày sinh

Ngày vào Đảng

Huy hiệu

Ghi chú

1

Nguyễn Văn Thư

03/02/1920

01/9/1946

70 Năm

 

2

Cù Đức Tịnh

24/02/1924

10/5/1949

65 Năm

 

3

Nguyễn Thị Thanh

01/01/1926

06/12/1948

65 Năm

 

4

Phan Thị Hồng Tuyết

03/02/1930

01/01/1949

65 Năm

 

5

Nguyễn Xuân Bình

14/10/1934

15/11/1955

60 Năm

 

6

Nguyễn Xuân Hy

02/6/1932

06/3/1960

55 Năm

 

7

Nguyễn Đức Cảnh

10/02/1939

15/10/1966

50 Năm

 

8

Lê Văn Cư

06/3/1942

26/9/1965

50 Năm

 

9

Phạm Khắc Tiệp

10/8/1936

09/9/1962

50 Năm

 

10

Nguyễn Xuân Hoàng

06/02.1945

19/10/1966

50 Năm

 

11

Nguyễn Xuân Tường

10/10/1941

22/5/1967

50 Năm

 

12

Bùi Thị Lý

04/12/1950

02/9/1970

45 Năm

 

13

Nguyễn Đức Hiến

12/9/1947

03/10/1967

45 Năm

 

14

Nguyễn Bá Sơn

07/01/1950

15/12/1969

45 Năm

 

15

Phạm Đình Thìn

20/11/1940

10/8/1968

45 Năm

 

16

Văn Thị Tuyết

15/10/1949

25/10/1967

40 Năm

 

17

Nguyễn Xuân Bích

07/6/1951

25/10/1972

40 Năm

 

18

Lê Trọng Hưng

04/7/1953

22/4/1974

40 Năm

 

19

Nguyễn Văn Kình

12/6/1953

22/11/1977

30 Năm

 

20

Lê Hoàng Thông

02/9/1962

06/3/1984

30 Năm

 

21

Phan Quốc Bính

15/5/1958

16/9/1984

30 Năm

 

22

Trần Thị Mai

20/12/1949

28/8/1978

30 Năm

 

23

Nguyễn Thị Hương

12.7/1958

31/3/1982

30 Năm

 

24

Đoàn Tử Kế

28/4/1945

04/9/1985

30 Năm

 

25

Nguyễn Thị Huấn

20/5/1950

06/6/1978

30 Năm

 

26

Phạm Ngọc Minh

04/12/1954

21/03/1980

30 Năm

 

27

Nguyễn Thanh Hải

01/10/1959

16/7/1981

30 Năm

 

28

Hà Huy Sơn

20/10/1949

03/02/1980

30 Năm

 

29

Phan Thị Thanh

26/12/1957

19/5/1982

30 Năm

 

30

Đoàn Nhật Tiến

13/5/1953

19/5/1979

30 Năm

 

31

Võ Nguyên Phùng

18/10/1959

02/8/1980

30 Năm

 

        

 

 

 

 

 

[1] Mũ dùng mo cau cuộc lại như hình chóp nón để đội lên đầu

[2] Sự kiện này do đồng chí Nguyễn Thiều người làng Bảo Thịnh cung cấp.

[3] (thường gọi là Tứ) sinh năm 1911 tại làng Yên Đồng, tổng Đậu Xá, nay là xóm 3 xã Sơn Bình. Là người sớm tiếp thu thơ văn yêu nước và tư tưởng tiến bộ, dần dần hiểu biết thêm về thời cuộc, căm thù bọn đế quốc và cường hào, lại được các đồng chí Trần Chí Tín, Trần Bình, là thầy giáo dạy học ở Sơn Châu, dìu dắt và khuyến khích tham gia vào các phong trào đấu tranh.

 

[4] Lịch sử Đảng bộ Huyện Hương Sơn, tập I, Tr. 49

 

[5] Lịch sử Đảng bộ Huyện Hương Sơn, tập I, Tr. 49

[6] Đồng chí Nguyễn Tửu là lính khố xanh ta vận động đi theo cách mạng.

[7] Lich sử Đảng bộ huyện Hương Sơn tập II, Tr.12

[8] Đồng chí Lê Cự Hiếu và đồng chí Lê Mưu do Huyện ủy điều đi công tác nên không tham dự.

[9] Lịch sử Đảng bộ huyện Hương Sơn (1945 - 1975), tập 2, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội, 2001, tr22.

[10] Hồ Chí Minh toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia- Hà Nội 1995, Tr 145 

[11] Lịch sử Đảng bộ huyện Hương Sơn, tập II, Tr. 26.

[12] Bình nghĩa là bình yên, Dương là lấy từ đầu của xã Dương Trai trước đây.

[13] Trường được xây dựng trên nền đất của đình làng Yên Đồng cũ, (nay thuộc xóm 9).

[14] Hồ Chí Minh: Toàn tập, xuất bản lần thứ hai, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, trang 480.

 

[15] Lịch sử Đảng bộ huyện Hương Sơn, tập II, Tr.40

[16] Trước Cách mạng tháng Tám có một số họ đã hợp tự.

[17] Lịch sử Đảng bộ huyện Hương Sơn tập II, Tr. 63.

[18]  Lúc bấy giờ Sơn Châu mới sáp nhập, gọi tên mới là Bình Mỹ (Sơn Hà, Sơn Bình, Sơn Châu).

[19] Gồm Tây Sơn, Quang Diệm, Hàm Phố, Phúc Dương, Thịnh Văn, Mỹ Hào, Bình Mỹ.

[20] Lịch sử Đảng bộ Hà Tĩnh tập II, trang 283.

 

[21] Lịch sử Đảng bộ Hà Tĩnh tập II (1954 -1975), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1975, trang 15, 16.

[22] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.17, tr. 558.

[23] Hồ Chí Minh toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1996, tr156.

[24] Lịch sử Đảng bộ huyện Hương Sơn (1945 - 1975), tập II, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội, 2001, tr.164

[25] Lịch sử Đảng bộ huyện Hương Sơn, tập II Tr.186

[26] Theo thông báo lúc đó Bác mất ngày 3.9.

 

[27] Văn kiện đại hội đảng toàn quốc lần thứ VI, NXB chính trị quốc gia Hà Nội

 

Bản đồ hành chính
 Liên kết website
Thống kê: 305.357
Online: 75